MỘT NHÓM TÙ NHÂN ĐÃ DÙNG NHỮNG CHIẾC MÁY TÍNH TRÊN TRẦN NHÀ ĐỂ LẬT TUNG CẢ NHÀ TÙ NHƯ THẾ NÀO?
Bên dưới đây là một câu chuyện có thật, xảy ra trong một nhà tù ở bang Ohio, Mỹ, trong đó nhân vật chính đều là những tù nhân
từ vài chục năm tới chung thân, tìm đến nhau trong một dự án tái chế
rác thải làm xanh hóa nhà tù, dần dần tìm ra những kẻ hở, vận dụng những
kỹ năng công nghệ thông tin chủ yếu là tự học để xâm nhập vào hệ thống
mạng của nhà tù, tự cấp quyền đi khắp mọi nơi, tạo ra cả một chợ đen
kinh doanh phim khiêu dâm, game trong nhà tù, đồng thời còn dùng máy
tính “tự chế” để xâm nhập, đánh cắp tiền ở những ngân hàng, tổ chức bên
ngoài. Tất cả đều bắt đầu từ một dự án tái chế rác thải tốt lành...
Mùa hè năm 2015, Stan Transkiy bị kết án tù từ 16 năm tới chung thân cho
tội giết người. Khi thụ án tại nhà tù Marion nằm tại miền quê hẻo lánh
bang Ohio, Transkiy đã nảy ra sáng kiến chạy một chương trình tái chế
phân loại rác. Từ đó, người ta gọi Transkiy là "The Garbage Man” - một
người đàn ông được mô tả là hói, để râu, đôi khi làm việc liên tục 14
tiếng. Transkiy ước tính bản thân đã phân loại hàng chục ngàn kg rác
thải trong nhiều năm. Người ta đánh giá Transkiy đã làm tốt công việc
của mình, bất kể là đôi khi giải quyết vấn đề hơi cảm tính.
Các thanh tra bang thậm chí còn khen nhà tù Marion có “tư duy sáng tạo”
và “thân thiện với môi trường”. Transkiy đã giúp nhà tù Marion được cải
thiện hơn so với những nơi khác mà ông từng thụ án. Bên cạnh chương
trình tái chế thì nhà tù này còn có những chương trình giáo dục, thể
thao, tin tức và cả làm vườn. Tuy nhiên, những ngày tháng đáng tự hào
nhanh chóng chấm dứt vào một ngày tháng 8, khi Transkiy nghe tiếng loa
gọi từng người trong nhóm tái chế của ông lên điều tra, trong số đó bao
gồm cả Randy Canterbury, một nhân viên tổ chức phi lợi nhuận mang tên
RET3 nằm ngoài nhà tù. Rõ ràng đang có một cuộc điều tra về những sai
phạm trong chương trình tái chế.
Và không lâu sau đó, chính Transkiy cũng bị kêu lên thẩm vấn. Ông được
đưa vào một căn phòng, đối diện với điều tra viên liên bang để hỏi về
những câu như “Có biết mật khẩu máy tính của Canterbury không? Có hiểu
tường lửa là gì không? Canterbury có máy polygrpah không?” Sau đó, các
nhân viên đưa Transkiy tới một nhà giam tách biệt gọi là O Block, 9 ngày
sau tiếp tục bị kêu lên thẩm vấn thêm lần nữa bởi một điều tra viên
khác.
Transkiy bị tra hỏi về một vụ chuyển đồ trái phép vào tù với quy mô lớn.
Ai đó thậm chí còn giấu cả những chiếc máy tính tân trang lại trần nhà
giam và bằng cách nào đó, họ đã đăng nhập được vào mạng của nhà tù, có
được quyền truy cập vào các hoạt động nội bộ tại đây, bao gồm cơ sở dữ
liệu về các tù nhân và công cụ cấp quyền để đi vào những khu vực cấm.
Những chiếc máy tính này còn có được cả quyền truy cập vào thế giới bên
ngoài và ai đó còn dùng nó để sử dụng thẻ tín dụng bằng thông tin nhân
dạng đánh cắp từ những tù nhân. Kế hoạch này thực thực hiện không chỉ
trong nhà tù mà lan ra cả cộng đồng phi lợi nhuận và ngân hàng bên
ngoài,… tất cả đều được thực hiện mà quản lý không hề biết.
Khi các điều tra viên bày ra hết các manh mối tìm được, Transkiy một mực
khẳng định rằng ông không thể tin được điều này. Transkiy lắp bắp:
“Điều đó… điều đó… điều đó nhảm nhí thật. Đây là thứ… thứ… thứ… thứ
không có thật.”
Khi toàn bộ vụ việc được điều tra và công bố hồi tháng 4 năm nay, các
điều tra viên cho rằng một trong những nguyên nhân là do năng lực quản
lý yếu kém của những nhân viên nhà tù. Đồng thời, từ những cuộc phỏng
vấn với các tù nhân, điều tra viên, các nhân viên cũng như các văn bản
trong số hàng ngàn trang hồ sơ vụ án, dù chỉ là một phần của sự thật
nhưng cũng đủ để nói lên rằng quá trình phạm tội diễn ra một cách phức
tạp và đòi hỏi sự hiểu biết đáng kể về mặt kỹ thuật mới thực hiện được.
Chung quy lại, đó là cả một câu chuyện về việc một nhà tù với đầy đủ
công nghệ tiên tiến, bảo mật
vô tình lại là cơ hội cho các tù nhân học tập và “nghịch phá”. Thậm
chí, chính các điều tra viên đã phải thừa nhận rằng: “Những tù nhân
thông minh hơn đội ngũ kỹ thuật của chúng tôi.”
Trong chương trình tái chế rác thải trong nhà tù, Transkiy đã làm
việc cùng với 2 đồng nghiệp tài năng là Scott Spriggs và Adam Johnston
vốn đã là những người bạn thân từ khi còn ở bên nhà tù Lebanon. Spriggs
và Johnston là bạn thân với nhau bởi đều bị bắt giam từ năm 18 tuổi hồi
đầu những năm 2000 do tội giết người. Với tội danh này thì họ sẽ ngồi tù
từ ít nhất là vài chục năm cho tới chung thân. Spriggs cho biết cả 2
người đều rất thích máy tính.
Transkiy thì dùng từ “Zen” để diễn tả Johnson như một người rất tĩnh
tâm, khó bị làm phiền bởi những thứ khác. Johnson có vóc dáng cơ bản,
tóc đen, bị kết án do giết người liên quan tới ma túy, thích đọc sách và
sở thích cá nhân lệch lạc do gen. Trong những bức thư trao đổi với một
người bạn online, Johnson cho biết hắn thích đọc sách khoa học
viễn tưởng và giả tưởng, đặc biệt là thích Games of Thrones. Chưa hết,
Johnson còn có quãng thời gian 20 năm chơi guitar, lại thích thiên văn
học và triết học.
Johnson vẫn còn liên lạc với mẹ là Karen Gallienne khi ngồi tù.
Gallienne sống cách nhà tù 2 tiếng lái xe tại miền quê yên tĩnh Dayton
và thường xuyên đi thăm nuôi con mình. Vào năm 2015, Johnson bị kết án
15 năm nhưng vẫn thường xuyên gọi về nhà, hay gọi mẹ hắn một cách trìu
mến là “woman”. Một lần gọi điện về cho mẹ, Johnson còn kể rằng hắn đã
cảm thấy như thế nào khi nhìn thấy cảnh một con cá đang cố chạy trốn
khỏi hồ cá trong nhà tù, cách hắn nhìn cảnh con cá nhảy ra khỏi hồ, quẫy
trên sàn nhà một cách bất lực.
Lại nói tới Johnson và Spriggs, cả hai đều đã có kinh nghiệm về kỹ thuật
máy tính khi cùng nhau học ở Lebanon. Spriggs khi đó được học một khóa C
và C++, đồng thời còn học cách tạo cơ sở dữ liệu và sau đó còn làm nhập
liệu cho một khách hàng của nhà tù là AFL-CIO. Với những kỹ năng khác
do Spriggs tự mày mò học hỏi, hắn đã tự viết một chương trình để dọn dẹp
các file âm thanh bị hư và sau đó còn làm cả một hệ thống tìm kiếm bằng
hình ảnh cho văn phòng cảnh sát Georgia.
Các thành viên của nhóm sáng kiến tải chế tại nhà tù Marion, Stan
Transkiy (thứ hai từ trái qua) và Adam Johnston (ngoài cùng bên phải)
Spriggs cho biết Johnston đã học Visual Basic - một thứ dễ bắ đầu, và
sau đó cả 2 cùng nhau hoàn thiện những kỹ năng máy tính của họ. Spriggs
sau đó đã trở thành quản trị máy chủ và mạng thông qua một chương trình
của nhà tù, đồng thời còn ráp máy tính mới cho bộ phận IT và đây chính
là cơ hội để gắn có thể bí mật giấu phần cứng để phục vụ mục đích khác.
Nguồn tin từ một tù nhân khác cho biết 2 người còn có cả một mảng kinh
doanh khác là lén ghi đĩa game hoặc phim khiêu dâm để bán (Spriggs phủ
nhận thông tin này, còn Johnsons thì không hồi đáp). Khi không làm việc
có liên quan tới máy tính thì 2 người này lại cùng nhau nấu ăn và tập
gym với nhau. Spriggs cho biết: “cả 2 chúng tôi đều tìm cách học mọi thứ
có thể để sau này được về nhà thì sẽ rất có ích.”
Về phía các nhà chức trách, họ vẫn chưa thật sự hiểu rõ về khả năng tiếp
cận công nghệ của các tù nhân, tuy nhiên các nhà tù vẫn đang thử nghiệm
đưa chương trình giảng dạy về máy tính vào và tất nhiên là giới hạn
việc truy cập internet. Nhưng với sự phát triển của công nghệ trong
những năm gần đây thì quy định có phần thoáng hơn, các nhà quản lý trại
giam nhận thấy rằng máy tính chính là một công cụ quan trọng trong giáo
dục và nó ngày càng trở nên cần thiết cho các tù nhân, giúp họ có thêm
hy vọng quay trở lại xã hội một cách đàng hoàng hơn. Dù vậy, các mối
quan ngại về an ninh vẫn còn tồn tại.
Tuy nhiên, với vỏ bọc là một chương trình xanh hóa nhà tù từ việc tái
chế rác thải, bộ ba nhân vật chính của chúng ta lại có công trong việc
đánh bóng tên tuổi nhà tù Marion. Lúc bấy giờ, Transkiy đảm nhận việc
tái chế, Johnston làm thủ quỹ còn Spriggs thì làm IT. Thậm chí một cựu
nhân viên xã hội, cai ngục còn ca ngợi việc làm của nhóm này trên chương
trình TEDx, nói họ đã đến Marion để làm nó hiện đại hơn: “Những người
quản lý không đồng ý, anh ấy lý luận, họ có thể đã bắn anh ấy. Tuy nhiên
cuối cùng nhà tù đã hoàn thành morning 509 ngàn giờ dịch vụ cộng đồng
trong một năm.”
Trong quá trình hoạt động, nhà tù Marion có hợp tác với các tổ chức phi
lợi nhuận bên ngoài, bao gồm cả RET3 để dùng các tù nhân tháo dỡ máy
tính cũ, sắp xếp lại và gởi trả. Các tù nhân trong chương trình này được
huấn luyện để tìm ra các linh kiện máy tính xịn, có thể tận dụng để tái
sử dụng tại nhà tù. Và mọi chuyện bắt đầu phức tạp thêm từ đây khi nó
tạo cơ hội cho những linh kiện bị đánh cắp cho mục đích xấu. Spriggs và
Transkiy kể lại rằng những chiếc thẻ SD có chứa nội dung khiêu dâm bằng
cách nào đó đã được thu lấy, lén trao đổi với nhau trong tù để xem trên
các máy Nintendo Wii. Những tù nhân nào có USB cũng có thể dùng để đi
thuê chép phim khiêu dâm hoặc phim mới ra để về xem.
Kỳ thực, sự tồn tại của cả một nền kinh tế kín bên trong nhà tủ không
phải là hiếm nhưng tại Marion thì “chợ đen” này đặc biệt và sôi động hơn
hẳn. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, các điều tra viên đã sớm phát
hiện ra những chiếc máy tính giấu trên trần nhà do kích thước của chúng
lớn hơn nhiều so với USB, đĩa CD hoặc thẻ nhớ.
Thị trường chợ đen sôi động của Marion vẫn hoạt động êm xuôi cho tới
3/7/2015, khi hệ thống an ninh mạng vừa cài đặt gởi một thông báo cho
nhóm hỗ trợ rằng có một máy tính đã đăng nhập bằng tài khoản
“canterburyrl” quá số lần quy định. Đây là tên đăng nhập của Randy
Canterbury, một nhân viên tại RET3. Vài ngày sau, tình trạng này lại trở
nên nghiêm trọng hơn, các nhân viên IT nhận được 7 cảnh báo hack
tài khoản canterburyrl và 59 cảnh báo có sự xuất hiện của proxy. Điều
tra thử, các nhân viên nhận thấy có người dùng nào đó đã dành ra hàng
giờ đồng hồ để lướt qua những trang web nguy hiểm, thí dụ như các trang
chia sẻ file và tất cả đều cố tránh bị phát hiện bằng cách dùng proxy.
Đội IT vẫn không xác định được vị trí chính xác của các người dùng này.
Tuy nhiên Canterbury thì từ chối bình luận vào câu chuyện này nhưng rõ
ràng ông không đi làm vào ngày đầu tiên có cảnh báo. Cảm thấy có điều
không ổn, vượt quá tầm kiểm soát của cả đội ngũ IT địa phương, họ đã nhờ
tới sự giúp đỡ từ xa của đội IT cấp bang và cuối cùng, họ phát hiện ra
một chiếc máy tính mà trong tên gọi có các ký tự “lab9”.
Có được thông tin này, nhân viên IT tại nhà tù Marion là Gene Brady đã
biết phải làm gì. Ông cho biết: “Chỉ có một nơi ở chỗ tôi làm việc mà
máy tính được đặt tên theo kiểu đó. Nó chính là phòng máy tính của nhân
viên trên tầng 3. Nhưng ở đó chỉ có 6 máy tính, không phải là chín như
cách đặt tên của chiếc máy bí ẩn đó.” Lầu 3 hay P3 là một khu vực khả
nổi tiếng tại nhà tù Marion, đôi khi còn được gọi là “tháp ngà voi”, có
thể là do đây là nơi khá cô lập và được dùng để đào tạo.
Dù đã có được manh mối trong tay nhưng Brady vẫn không truy ra được
chính xác vị trí của máy tính phạm tội. Cuối cùng, nhóm IT bang chọn
cách tiếp cận là xác định cổng và switch cắm vào máy tính. Để tìm ra
được máy tính vi phạm, Brady đã phải thực hiện một công việc đơn giản
là: lần theo dây dẫn. Một tù nhân được gọi để giúp nhóm điều tra cho
biết: "Chúng tôi đã kéo cáp và bắt đầu lần theo từng sợi cáp trên trần
nhà. Trung tâm mạng là nơi chằng chịt dây dẫn, đủ màu xanh, cam, xanh
lá, và tổ chức không theo bất cứ quy luật nào.” Kết quả cũng dần lộ
diện, Brady đã lần ra được một sợi dây dẫn tới trần của một phòng thay
đồ trong khu tập luyện. Tới nơi, ông bắt thang và lật một mảnh trần ra.
Bên trong, đập vào mắt ông đầu tiên là một chiếc thùng máy Dell, sau đó
là nhiều thứ khác.
Ngay lập tức, Brady báo động tới các nhân viên khác và một viên sĩ quan
đã chui vào không gian chật hẹp đó, chụp ảnh lại những bằng chứng vừa
phát hiện. Tiếp theo, một vài tù nhân được yêu cầu leo lên khuâng máy
cùng các thiết bị xuống và đưa đi. Tuy nhiên. Brady sau này nói ông
không ngờ rằng hành động này lại làm cho quá trình điều tra bị gián
đoạn.
Những ngày sau đó, các nhân viên cứ liên tục điều tra từ những bằng
chứng tìm được. Một nhân viên IT đã phát hiện ra những miếng decal dán
trên chiếc thùng máy tính. Một cái là của trường học địa phương, một cái
khác là từ một công ty cũng đang hoạt động tại đây.
Tới ngày 17/8 thì Stephen Gray, cố vấn trưởng của nhà tù mới được báo
cáo phát hiện này. Ông cho biết: “Khi tôi biết được điều đó, tôi đã nói
Các anh biết đây, có thể đã có một số hoạt động bất hợp pháp có liên
quan tới điều này bưởi chúng tôi không biết các tù nhân đang làm gì.”
Sau đó, Gray đã viết một báo cáo gởi lên cơ quan điều tra bang và khi
đọc được nó, Randall J. Meyer, giám đốc cơ quan điều tra đã phải thốt
lên: “Đùa hả.” Trong quá trình làm việc, Meyer không còn xa lạ gì với
nhà tù Marion. Hồi năm 2014, nhà tù này xảy ra một vụ gian lận tài chính
khá kỳ lạ và có ai đó đã đánh cắp danh tính của các tù nhân.
Lúc này, một nhóm pháp chứng đã được điều tới để nghiên cứu phần cứng
tại nhà tù. Qua điều tra, họ xác định rằng đây là một vụ lớn với mạng
lưới xâm nhập rộng, phức tạp. Những ngày sau đó, các điều tra viên còn
phát hiện ra hàng trăm chiếc ổ cứng tại nhà tù Marion. Và cho tới thời
điểm này, các điều tra viên khác đã dành ra vài tuần để thẩm vấn bất kỳ
người nào tại nhà tù có thể liên quan tới những chiếc máy tính. Họ tra
hỏi về nguồn gốc của nó và tìm hiểu xem ai đã giấu chúng trên trần nhà.
Dù vậy, quá trình điều tra đã có một kẽ hở khi đã để cho Transkiy và
Johnston cùng ở chung một căn phòng giam, tạo điều kiện cho họ thông
cung với nhau. Bởi thế, ngay cả khi chuyển các tù nhân sang nhà giam mới
thì câu trả lời của họ vẫn có thể được phối hợp với nhau. Có lúc, các
điều tra viên phải khóa một số khu vực trong nhà tù nếu tình nghi có
bằng chứng, đồng thời yêu cầu các quản giáo không được vào. Và một nhân
viên nhà tù đã bước vào đó bằng mọi giá, quản giáo thì bảo là họ cần một
vài tài liệu.
Một trong những chiếc máy tính lậu được phát hiện trên trần nhà
Và nhóm pháp chứng đã phát hiện ra một bằng chứng quan trọng nhất. Những
chiếc máy tính trên trần nhà có chứa mọi thứ mà một hacker đầy tham
vọng có thể cần, bao gồm cả công cụ mã hóa, trình duyệt Tor, các công cụ
gởi mail và bẻ mật khẩu. Quan trọng hơn hết, trong đó có cả một phần
mềm nhắn tin từ máy tính tới tin nhắn điện thoại. Từ các tin nhắn này,
nhóm điều tra đã đọc được những cuộc nói chuyện giữa Adam Johnston và
Karen Gallienne. (bạn còn nhớ 2 mẹ con này không nhỉ? )
Trong một tin nhắn, Gallienne đã gởi cho Johnston một địa chỉ, sau đó
Johnston nsoi rằng “có vẻ gần nhà mẹ đấy.” Đồng thời, nhóm pháp chứng
còn phát hiện ra những ứng dụng có chưa thông tin thẻ tín dụng ngân hàng
dưới tên gọi Kyle Patrick, một tù nhân có tên trong danh sách của bang
Ohio.
Từ đây, nhóm điều tra chuyển hướng sang bản ghi âm những cuộc gọi từ
Johnston tới Gallienne. Kết hợp kết quả điều tra này tới những nội dung
của máy tính, họ đã vẽ nên một bức tranh của vụ án. Trong một cuộc điện
thoại, Gallienne nói rằng bà đã nhận được một lá thư từ chối thẻ tín
dụng từ Chase do người nộp đơn không có lịch sử tín dụng. Khi đó,
Johnston đáp lại rằng: “Được rồi, con biết rồi. Con đang tìm cách. Chậm
mà chắc.” Sau đó, một chiếc thẻ dưới tên gọi Kyle Patrick đã xuất hiện
và Gallienne đã đọc lại những con số cho con của bà.
Vào một ngày trời mát của tháng 11, bốn tháng kể từ khi phát hiện ra
những chiếc máy tính, nhóm điều tra đã dùng cách của họ để tìm tới nhà
Gallienne. Các nhân viên tuần tra đường cao tốc liên bang đã lục soát
căn nhà, tịch thu các món đồ điện tử và phát hiện ra một thẻ tín dụng
đứng tên Kyle Patrick. Sau đó, họ ngồi xuống nói chuyện với Gallienne và
em trai của Johnston là Jason. Một viên cảnh sát bắt đầu dẫn dắt các
câu hỏi nhưng chưa vội nói nhiều về Johnston. Viên cảnh sát này nói với
Gallienne rằng: “Rõ ràng, qua quá tình điều tra, chúng tôi phát hiện
rằng các người đã tham gia, giúp đỡ quá trình phạm tội trộm cắp của anh
ta. Các người có nhận ra điều đó không?”
Tất nhiên là người mẹ đã phủ nhận, nói Johnston chỉ gởi có một chiếc thẻ
tín dụng để “cố giúp” cho người mẹ. Đồng thời theo bà thì hắn đã “bán
những món đồ tại đó vì hắn có các thiết bị, đàn guitars,… vậy thôi.”
Đồng thời theo bà thì chiếc thẻ này chỉ là một cách mà Johnston gởi số
tiền bán đồ về cho bà. Viên cảnh sát đáp lại rằng “nghe có vẻ tốt đẹp
nhỉ. Vậy còn tên Kyle Patrick trên chiếc thẻ thì sao? Tại sao anh ấy lại
không lấy tên bà?”
“Vì nó nói lấy tên tôi sẽ có chuyện xấu.”
“Tại sao lại vậy?”
Lúc này Gallienne ngập ngừng một chút. Bà giải thích Johnston không nói
chi tiết, chỉ thừa nhận rằng đã cho hắn tên và địa chỉ của một người
hàng xóm (không hề tham gia gì trong vụ án này, chỉ là nơi nhận thư) Khi
chiếc thẻ về tới nơi, bà đã lấy nó thông qua người hàng xóm. Johnston
kể rằng Johnston đã bảo “đừng lo về nó”. Và bà khai tiếp với các điều
tra viên rằng: “Đó là tất cả những gì nó nói. Tôi phải làm gì khi nó
nhắn cho tôi? Chỉ nói là dừng nhắn mẹ nữa hả? Ý tôi là, đó vẫn là con
trai tôi.”
Cuộc điều tra vẫn tiếp tục, các điều tra viên đẩy mạnh nhịp độ lên, họ hỏi: “Điều tồi tệ nhất đã đưa bà vào rắc rối là gì?”
Gallienne đáp lại: “Không có gì cả. Tôi chưa bao giờ vướn vào rắc rối.”
“Không có vé phạt quá tốc độ?”
“Không từ khi tôi 16 tuổi.”
“Bạn có biết cái gì là đánh cắp danh tính và gian lận?”
“Có tôi biết”
“Đặc biệt là khi nó có liên quan tới các tổ chức tài chính?”
“Có tôi biết chứ. Tôi chắc là nó sẽ tệ lắm.”
“Và nó tệ cỡ nào. Bà có nghĩ nó tới mức tội phạm không?”
“Có lẽ.”
“OK. Anh ấy đã làm điều đó với bà đó.”
“Tôi biết.”
“Bà có nghĩ bà có thể phải ngồi tù 18 tháng?”
“Tôi hả, không đâu.”
“Bà bao nhiêu tuổi rồi?”
“54”
Vị cảnh sát đáp, “Kỳ thực bà khó lòng mà ngồi tù 18 tháng ở tuổi 54. Bà không nghĩ vậy sao?”
Sau khi làm việc với người mẹ xong, các điều tra viên bắt đầu
chuyển sang phỏng vấn Johnston vốn bấy giờ đã được chuyển sang Trung tâm
giáo dưỡng Grafton, cũng thuộc hệ thống nhà tù bang Ohio. Tuy nhiên,
hắn nói chuyện một cách miễn cưỡng và trước khi khai báo, hắn yêu cầu
phải “có sự bảo đảm” cho mẹ hắn. Tất nhiên các điều tra viên nói họ
không thể làm thế được và hắn lại hỏi tiếp rằng vậy tại sao hắn phải họp
tác.
Một điều tra viên dùng chiến thuật rằng Johnston đã phản bội lòng tin
của mẹ hắn: “Bà ấy không tin điều đó. Bà ấy cứ luôn miệng nói ‘Nó không
bao giờ đưa tôi vào con đường nguy hiểm.’ Tôi thì bảo rằng ‘Hãy ngồi
xuống đây Karen. Nghe nè, đáng tiếc là anh ấy đã làm điều đó. Anh ấy
không quan tâm đủ tới việc đưa bà vào con đường nguy hiểm. Còn em của
anh, người mà anh lúc nào cũng chửi qua điện thoại, thứ mà anh chỉ coi
là mảnh rác, thì vẫn đang ngồi bất động đấy nhưng ít nhất là có đủ ý
thức để không đưa mẹ anh vào những thứ nguy hiểm.”
Có mặt tại buổi thẩm vấn, một nhân viên IT bang còn nói thêm rằng rõ
ràng Johnston đang đưa Gallienne tới cái đích tội phạm: “Nó giống như
rán cá vậy ah. Nếu anh ăn nhiều quá rồi thì anh sẽ không ăn những con cá
khác được nữa.” Cuối cùng thì Johnston cũng chịu nhượng bộ và khai
nhận, tuy nhiên lời thú tội vẫn chưa hoàn chỉnh. Các điều tra viên hỏi
tiếp rằng liệu hắn ta phạm tội một mình hay có đồng bọn nào khác nữa
không, hắn hỏi lại rằng có thông tin, lời khai hoặc chứng cứ gì của
những nghi phạm khác hay không. Giấu đầu nhưng lòi đuôi từ đây. Và tất
nhiên, các điều tra viên trả lời không, chỉ nói rằng mới tìm được chứng
cứ và thông tin từ những chiếc máy tính trên trần nhà.
Từ lời khai của Johnston, người ta nhận thấy những âm mưu tinh ranh
trong quá trình phạm tội của nhóm. Spriggs đã ráp một số máy tính từ
những linh kiện của RET3 với danh nghĩa là xài trong nhà tù, nhưng sau
đó lại chuyển sang cho Johnston. Khi Canterbury rời khỏi khu vực P3 mà
không bị giám sát, Johnston đã đưa những chiếc máy tính này vào, mang
giấy trên trần nhà, kết nối mạng và truy cập từ xa. Johnston khai đã lén
nhìn mật khẩu của Canterbury khi ông này đăng nhập vào làm việc. Tất
nhiên việc lấy mật khẩu bằng cách nhìn lén này phải được làm từ từ, mỗi
lần một ít ký tự.
Sau khi đã có được quyền truy cập, lại có sẵn máy tính để điều khiển từ
xa, Johnston có thể truy cập vào mạng nội bộ của nhân viên nhà tù từ văn
phòng gần đó vốn đã được cấp quyền cho hắn ra vào làm việc. Johnston
khai đã đánh cắp thông tin cá nhân của một tù nhân khác từ hệ thống nội
bộ gọi là DOTS. Tất nhiên các thông tin này đã được mã hóa để giấu đi
nhưng đối với Johnston, đơn giản là chỉ cần code trên trang đó là được.
Sơ đồ các khu vực của nhà tù Marion
Vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào Johnston chuyển máy tính từ RET3 tới khu P3?
“Bằng một chiếc xe đẩy”. Hắn khai với các điều tra viên.
Một trong những xảo thuật của Johnston chủ yếu dựa vào chiếc xe đẩy vệ
sinh có thể đi nhiều nơi, từ khu vực tái chế tới các khu vực khác. Để
tới được P3, hắn phải đi qua một “crash gate”, cánh cổng có máy dò kim
loại. Johnston khai rằng hắn đã nhét những phụ kiện máy tính vào trong
hộp lẫn với các sản phẩm vệ sinh và “trông cũng khá hợp lệ” nên đã được
khoát tay cho qua. Johnston nói Transkiy hoàn toàn không nhận ra điều
này. Vậy còn Spriggs thì có liên quan gì tới vụ án này? Spriggs phủ nhận
sự liên quan tới vụ này. Tuy nhiên, trong báo cáo cuối cùng của cơ quan
điều tra thì Spriggs là một đồng lõa, còn khi được phỏng vấn thì
Spriggs lại bảo rằng chỉ liên quan tới việc ráp máy tính, còn để sử dụng
làm gì thì không biết được.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là một phần trong kế hoạch. Johnston còn khai
rằng đã dùng các phần mềm phục hồi mật khẩu để đánh cắp quyền truy cập
vào mạng nội bộ và sau đó thậm chí còn tự in các tấm thẻ ra vào khu vực
cấm, cho phép hắn được đi khắp mọi nơi trong nhà tù. Tuy nhiên, Johnston
khai chỉ dùng nó để đẩy nhanh quá trình hợp thức hóa công việc. Sau
này, khi điều tra sâu hơn về các ổ cứng, USB hay thẻ nhớ thu được, một
trong số đó có chứa phim khiêu dâm và đang được giữ bởi một tù nhân
khác, Johnston khai do chính hắn đã tải về. Johnston cho biết nếu chưa
bị bắt thì hắn còn có kế hoạch làm giả cả những tờ khai thuế để kiếm
tiền. Tuy nhiên, hắn thừa nhận do không có kiến thức chuyên môn nên
không thực hiện được mưu đồ.
Một trong số các điều tra viên đã nói với Johnston rằng: “Ông thật sự thông minh. Ông thông minh. Tôi biết ông rất thông minh.”
Và Johnston đáp rằng: “Nếu tôi thông minh thì đã không phải ngồi đây nói chuyện với các ông rồi.”
Tới tháng 8 vừa rồi, mấy anh bên Theverge đã văn phòng của tổng
thanh tra Meyer. Đó là một người có mặt vuông, mái tóc buzz, kéo mấy anh
bên The Verge ra sát cửa sổ và bảo rằng công việc của ông về cơ bản là
sự giám sát của Chính phủ theo đúng nghĩa đen: “Tôi vẫn còn ngạc nhiên.
Đây là một vụ rất đặc biệt” Meyer đặt câu hỏi rằng liệu các tù nhân
chung thân có nên được truyền tiếp cận tới các chương trình tái hòa nhập
cộng đồng hay không. Nếu họ không có đóng góp gì cho nền kinh tế bên
ngoài thì phải làm sao?
Vụ việc của Johnston không chỉ có liên quan tới nhóm 3 người mà còn ảnh
hưởng tới rất nhiều nhân viên, quản lý và cả uy tín của khu vực. Ngay cả
trước khi báo cáo đầu tiên của các điều tra viên được tiết lộ thì nhiều
nhân viên có tham gia đã nghỉ hưu hoặc xin từ chức. Có quản giáo đã rời
khỏi nhà tù để chuyển sang một chương trình dành cho người khuyết tật.
Canterbury giờ đây đã chuyển sang một chương trình tái chế cấp hạt tại
Ohio. Về phía các bị cáo có liên quan trực tiếp thì sau báo cáo, rất có
thể Johnston và có lẽ là Gallienne cũng sẽ đứng trước nguy cơ phạm tội
hình sự. Tuy nhiên, Meyer cho rằng có thể đánh giá tùy trường hợp những
người liên quan mà có mức hình phạt phù hợp, thí dụ như đối với người
quản giáo thì có thể đánh giá dựa trên mức độ xao nhãn công việc.
Còn Johnston, Spriggs và Transkiy thì đã được chuyển tới các nhà tù
khác. Đối với Transkiy, việc phải rời khỏi chương trình tái chế của ông
tại Marion là mất mát không hề nhỏ. Transkiy khi xưa bị kết tội do giết
chết chủ công ty máy tính mà ông đang làm việc và đây cũng là một trong
những vụ án đặc biệt tại thời điểm đó. Tuy nhiên, sau khi ngồi tù 10 năm
thì mức độ nguy hiểm của Transkiy được hạ xuống và được đưa tới Marion.
Transkiy viết: “Khi tôi tới MCI, rất ít công việc có ý nghĩa dành cho
những người nhiều thời gian.” Bởi thế khi tới, Transkiy đã dành ra 6
tháng để thăm dò khắp nhà tù để khởi động chương trình tái chế - điều mà
sau đó làm ông cực kỳ tự hào.
Transkiy nói ông không biết gì về những chiếc máy tính trên trần nhà mặc
dù trước đó ông cũng nghi ngờ về thứ gì đó đang diễn ra. Tuy nhiên,
theo các nhà điều tra thì Transkiy đã từng sử dụng máy tính của
Canterbury và rõ ràng là đã phạm quy. Tuy nhiên theo Transkiy thì ông
dùng rất ít và khi đó thì đều có sự giám sát.
Trước khi chương trình tại Marion khởi động, hệ thống của nhà tù không
hề có thứ gì đó giống như vậy, Transkiy khẳng định: “Trước đó, không hề
có quy định hoặc quá trình để điều chỉnh tất cả những nhu cầu của chúng
tôi cũng như chỉ ra toàn bộ những vấn đề, các mối quan tâm. Những gì mà
tôi muốn nói chính là chương trình Nhà tù xanh MCI của tôi chỉ đơn giản
là phát triển quá nhanh, nảy sinh ra nhiều vấn đề mà hệ thống an ninh
cũng chưa thể đáp ứng.” Và đây có lẽ chỉ là một kết cục đáng buồn đối
với một trong những sáng kiến mang tính tiên phong, cho thấy cần phải có
sự đồng bộ trong quá trình phát triển không chỉ của nhà tù mà nhiều
lĩnh vực khác. Trên thực tế, sau này Johnsons cũng viết thư xin lỗi
Transkiy, nói rằng: “Tôi xin lỗi, một ngày nào đó tôi sẽ bù đắp cho
anh.” Và dù sao đi nữa thì đối với Transkiy, chương trình tại nhà tù
Marion vẫn là niềm tự hào của ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét