Các dịch vụ xuyên biên giới là sản phẩm của những tiến bộ về công
nghệ và là minh chứng về một thế giới đang ngày càng phẳng hơn. Tuy
nhiên đây lại là lĩnh vực gây đau đầu cho các nhà làm luật bởi sự mới mẻ
và bởi việc cân bằng cán cân giữa quyền lợi người xem và quản lý các
dịch vụ xuyên biên giới là điều không dễ dàng.
Indonesia chặn Netflix cho đến khi tuân thủ luật
Với các nước châu Á, 3 vấn đề chính mà các nhà cung cấp dịch vụ xuyên
biên giới phải đáp ứng khi gia nhập thị trường bao gồm: Tiêu chuẩn nội
dung, bao gồm việc đáp ứng về các yêu cầu đặt ra của nước sở tại liên
quan đến bạo lực, dung tục, chính trị và hài hòa xã hội; Vấn đề về thuế;
và Các vấn đề kiểm soát liên quan đến chủ quyền quốc gia, khung pháp lý
về phát sóng vượt biên giới... Tùy thị trường sẽ có các ưu tiên khác
nhau với các cam kết mà các đơn vị như Netflix, Spotify hay Facebook
phải đáp ứng.
Một ví dụ điển hình về việc dịch vụ này phải đáp ứng các yêu cầu để
gia nhập thị trường châu Á là trường hợp của Netflix tại Indonesia. Ra
mắt thị trường Indonesia vào tháng 1/2016, Netflix ngay lập tức vướng
pháp lý khi các nhà làm luật cho rằng hãng đang chiếu các nội dung bạo
lực và khiêu dâm một cách thiếu kiểm duyệt.
|
Các dịch vụ OTT xuyên biên giới đang làm khó các nhà làm luật châu Á. Ảnh: Việt Linh. |
Ngoài vấn đề về nội dung, Bộ Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Indonesia (MOCIT) còn yêu cầu Netflix phải thiết lập một văn phòng đại
diện tại nước này và thực hiện nghĩa vụ thuế tại Indonesia.
Nhà mạng thuộc sở hữu Nhà nước và cũng là nhà mạng lớn nhất
Indonesia, Telkom, khi đó cũng đã chặn truy cập với Netflix trên toàn
lãnh thổ. Phó chủ tịch nhà mạng, ông Arif Prabowo, đã chia sẻ với
Reuters sẽ tiếp tục chặn Netflix cho tới khi hãng tuân thủ các luật định tại Indonesia.
Chỉ là một đơn vị cung cấp nội dung cho hãng trong nước
Chưa thu được doanh thu đáng kể trong khi đã chi mạnh tay cho khâu
marketing tại thị trường Indonesia, tương lai của Netflix ở thị trường
này trở nên vô cùng u ám. Lựa chọn duy nhất mà MOCIT đưa ra cho Netflix
tại Indonesia là hợp tác với một doanh nghiệp địa phương để thành lập
liên doanh phù hợp với luật định.
Tới tháng 4/2017, chính Telkom, nhà mạng đã chặn Netflix, là đơn vị
đứng ra bắt tay với ông lớn đến từ Mỹ này. Được chính thức bước vào thị
trường Indonesia nhưng Netflix gần như mất hiện diện thương hiệu khi chỉ
là một đơn vị cung cấp nội dung cho IndiHome, dịch vụ truyền phát phim
theo yêu cầu của Telkom.
Câu chuyện tương tự cũng diễn ra tại Singapore khi Netflix phải bắt
tay với Singtel, nhà mạng lớn nhất Singapore, để đủ điều kiện kinh
doanh.
"Các dịch vụ truyền tải qua Internet mang đến những câu hỏi mới cho
tất cả mọi người, bao gồm cả các nhà làm luật, và dự định của chúng tôi
là tuân thủ với các luật và quy định cần thiết", bà Jessica Lee, trưởng
bộ phận truyền thông châu Á của Netflix, cho hay.
"Đây sẽ là một phần trong hành trình của chúng tôi khi ra mắt tại các quốc gia khác nhau", bà Lee nói thêm.
Đổi lại việc mở rộng thị trường, Netflix thông báo khoảng lỗ
104,2 tỷ USD
trong quý I/2016 tại các thị trường ngoài nước Mỹ vì chi phí marketing
cao trong khi doanh thu trên mỗi người xem lại thấp hơn thị trường sân
nhà.
Singapore áp thuế 7%
Những ông lớn công nghệ cung cấp nội dung xuyên biên giới dường như
có một điểm chung về thuế, đó là khi không bị yêu cầu nộp thuế một cách
mạnh tay, các hãng sẽ tìm mọi cách để tránh thuế tại các quốc gia có
triển khai dịch vụ và có phát sinh doanh thu.
|
Rõ ràng các doanh nghiệp OTT xuyên biên
giới có phát sinh doanh thu tại các quốc gia như Việt Nam, nhưng lại rất
khó để thu thuế. |
Đầu năm 2018, cơ quan thuế của Singapore đã lên kế hoạch áp thuế Hàng
hóa và dịch vụ (GST) 7% lên các dịch vụ trực tuyến như Spotify, Netflix
hay Amazon Prime.
"Với sự phát triển của công nghệ và kinh tế số, có một thực tế phổ
biến là có rất nhiều dịch vụ được tiêu dùng tại Singapore đến từ các nhà
cung cấp nước ngoài, những đơn vị có thể cung cấp dịch vụ mà không cần
hiện diện ở Singapore", đại diện Bộ Tài chính Singapore nhận định.
"Việc cân nhắc áp thuế GST lên các dịch vụ 'nhập khẩu' này sẽ đảm bảo
rằng bất luận dịch vụ được mua tại Singapore dù đến từ nhà cung cấp địa
phương hay nhà cung cấp nước ngoài cũng đều có trách nhiệm GST ngang
nhau", vị này nói thêm.
Cơ quan chức năng của Indonesia cũng đang xây dựng luật để yêu cầu
các dịch vụ OTT nước ngoài phải đóng thuế cho khoản doanh thu phát sinh
từ thị trường Indonesia.
Tháng 5/2016, MOCIT cũng ban hành dự thảo quy định về quản lý các
dịch vụ OTT, áp dụng với cả OTT trong và ngoài Indonesia. Dự thảo này
được sửa đổi vào 8/2017 và dự kiến được chính thức thông qua trong năm
2018.
Trong khi tại Thái Lan, tháng 4/2017, Ủy ban Truyền hình và truyền
thông nước này đã công bố kế hoạch đưa các dịch vụ OTT vào một khung
quản lý dạng cấp phép, từ đó có thể đánh thuế các dịch vụ này theo cơ
chế thuế Thái Lan.
Theo báo cáo Chính sách truyền hình OTT châu Á 2018 của
Hiệp hội ngành video châu Á (AVIA), đơn
vị này nhận định rằng các quốc gia châu Á đang hướng tới 3 mục tiêu
chính trong việc ban hành luật quản lý các dịch vụ OTT đó là quản lý
chuẩn nội dung, quản lý thuế và áp đặt kiểm soát.
AVIA cũng cho rằng các dịch vụ OTT xuyên biên giới đang chịu
sự kiểm soát chặt chẽ hơn so với trước đây khi cách đây chỉ 3 năm, châu
Á gần như không có quy định nào về quản lý OTT. Câu chuyện năm 2018 đã
khác khi nhiều quốc gia đã soạn thảo luật và đang phân hóa làm hai nhóm
ứng xử.
|
3 năm trở lại đây, các quốc gia châu Á đã có những động thái nhất định để quản lý OTT xuyên biên giới. Ảnh: Getty. |
Tại các nền kinh tế phát triển như Singapore, Hong Kong hay New
Zealand, họ đang cố gắng xây dựng một sân chơi bình đẳng thuận lợi hơn
cho truyền hình truyền thống và các dịch vụ OTT, dù vẫn có những giới
hạn. Nhóm còn lại theo AVIA là các nước đang muốn quản lý các dịch vụ
OTT theo đúng các quy định áp dụng với truyền hình truyền thống.
Tuy nhiên, dù có xây dựng luật theo hướng nào, các quốc gia châu Á
cũng đang chật vật để áp thuế các hãng OTT xuyên biên giới khi mà nhiều
hiệp định thương mại đều có điều khoản chống đánh thuế hai lần. Các nhà
làm luật châu Á đang tiến thoái lưỡng nan khi nếu cho phép thì khó thu
thuế mà không cho phép thì khán giả lại không thể hưởng lợi từ các tiến
bộ công nghệ.