Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

MobiFone, Viettel: “So găng” gói cước 3G siêu rẻ

Hai "đại gia" di động là MobiFone và Viettel lại quyết "so găng" nhau tung ra các gói cước 3G siêu rẻ. Mới đây MobiFone tung ra gói cước chỉ với 40.000 đồng/tháng, Viettel cũng tung ra gói cước tương tự như vậy trên thị trường.
Cả MobiFone, Viettel đều quyết biến 3G từ "món ăn" xa xỉ trở thành bình dân. Ảnh: H.Q.

Nóng bỏng cuộc chạy đua gói cước 3G

Chỉ hai tháng trước đây, MobiFone ra gói cước truy cập 3G với tên gọi FCU không giới hạn dung lượng nhưng chỉ phải trả tối đa là 120.000 đồng/tháng cho máy tính để bàn và laptop. Với gói cước FCU, khách hàng sẽ được sử dụng dung lượng không giới hạn chỉ với 120.000đ/tháng. Khách hàng sử dụng đến 2Gbs với tốc độ tối đa 7,2Mbps, từ 2Gbs trở đi khách hàng vẫn được truy cập dung lượng miễn phí với tốc độ tối đa là 256Kbps. Tại thời điểm đó, gói cước này được đánh giá là gói cước siêu rẻ và biến 3G từ "món ăn" xa xỉ trở thành bình dân. Cùng với việc siêu giảm cước 3G, tại TP Hồ Chí Minh – nơi được xem là đang có số lượng khách hàng đông nhất, MobiFone đã tung ra rất nhiều “chiêu” để kích thích khách hàng sử dụng dịch vụ 3G như bán hàng, tiếp thị trực tiếp SIM và thiết bị Fast Connect dành cho các thuê bao sử dụng dịch vụ kết nối Internet di động.
MobiFone cho biết, ngay sau khi tung ra gói cước này, tại khu vực TP Hồ Chí Minh, thuê bao MobiFone sử dụng gói cước FCU đã tăng rất mạnh. Cũng như MobiFone, Viettel cũng tung ra gói cước tương tự và sau đó VinaPhone cũng nhảy vào cung cấp gói cước theo dạng này. Điều này đã khiến thị trường di động trở nên nóng bỏng.
Thế nhưng, cuộc đua "tam mã" không dừng lại ở đó khi mới đây, MobiFone quyết định tung ra tung ra hai gói cước "sát thủ" sốc nhất từ trước đến nay. Cụ thể nhà mạng này đã tung ra gói Mobile Internet dành cho điện thoại di động với mức giá cước siêu rẻ chỉ với 40.000 đồng/tháng và gói cước không giới hạn MIU chỉ với 60.000 đồng/ tháng có tốc độ truy cập tối đa 1Mbps. Theo đó, những khách hàng sử dụng điện thoại di động sẽ có hai lựa chọn giữa gói cước Mobile Internet cơ bản và Mobile Internet không giới hạn. Đối với những khách hàng có nhu cầu kết nối Internet nhiều để chia sẻ hình ảnh, down load tài liệu, tải game, xem phim... thì gói cước Mobile Internet không giới hạn lại chính là sự lựa chọn thông minh nhất vì tốc độ truy cập tối đa của gói này có thể đạt 1Mbps. Khách hàng sẽ được truy cập Internet tốc độ cao cho đến khi dung lượng truy cập đạt 500Mb, từ 500Mb trở đi khách hàng sẽ sử dụng với tốc độ thông thường. Nếu muốn sử dụng tiếp với tốc độ cao, khách hàng có thể thực hiện gia hạn gói cước.
MobiFone cho biết, gói cước này được thiết kế nhắm đến đối tượng là các khách hàng trẻ và dân văn phòng. Với việc cho phép truy cập không giới hạn về lưu lượng mà người dùng chỉ phải trả tối đa 40.000 đồng/tháng, khả năng kiểm soát chi phí đã được thiết lập. Bên cạnh đó, việc cho phép khách hàng sử dụng 500 Mb dữ liệu đầu tiên với tốc độ tối đa (8/2 Mbps) sẽ đáp ứng nhu cầu dùng Internet trên di động của phần lớn người tiêu dùng.
Trong khi đó, Viettel cũng tung ra gói cước tương tự như vậy trên thị trường có tên gọi MiMAX có cước phí hàng tháng là 40.000 đồng. Viettel cũng kỳ vọng sự bùng nổ dịch vụ 3G từ gói cước này.

Sắp bùng nổ dịch vụ 3G

Việc các đại gia di động liên tiếp tung ra các gói cước 3G siêu rẻ chắc chắn sẽ làm đồng lực cho 3G phát triển bủng nổ ở Việt Nam. Trong một nghiên cứu thị trường mới đây của Yahoo cũng đã thấy rõ xu hướng này. Ông David Jeffs, Giám đốc Bộ phận Nghiên cứu của Yahoo! cho biết: “Hiện nay, số lượng người sử dụng Internet di động chiếm 1/3 (30%) trong tổng số người dùng Internet tại Việt Nam và sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Internet đã làm cho điện thoại di động trở nên tiện dụng hơn và Internet di động sẽ trở thành những trải nghiệm đầu tiên cho những người truy cập Internet lần đầu”.
Nghiên cứu của Yahoo cũng chỉ ra rằng, Việt Nam là quốc gia có mức độ chi tiêu cho dịch vụ Internet di động hàng tháng cao nhất Đông Nam Á. Người tiêu dùng cũng đang mong đợi một sự đổi mới về cơ sở hạ tầng và sự tăng trưởng trong tỷ lệ truy cập Internet di động để làm cho giá thành của dịch vụ này rẻ hơn. Trong khi đó, ông Jan Wassenius, Tổng giám đốc Ericsson Việt Nam dự báo rằng lưu lượng dữ liệu 3G hàng năm ở Việt Nam sẽ tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới. Ericsson còn dự đoán, trong năm 2012, cứ 3 người mua điện thoại mới thì có 1 người mua smartphone bởi vì giá smartphone hiện nay ngày càng rẻ và "gần gũi" với đại đa số người sử dụng. Theo thống kê của Ericsson, 3% người sử dụng smartphone có thể tiêu thụ 40% dung lượng của mạng di động. Việc sử dụng smartphone sẽ tạo ra lưu lượng dữ liệu tăng gấp 10 lần so với điện thoại truyền thống trước đây.
Theo ICTNews
http://www.thongtincongnghe.com/article/31298?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed%3A+ttcn+%28TTCN+-+Tat+ca%29

Ưu và nhược của hệ thống HTIB

Hệ thống HTIB (Home Theater In a Box) nhỏ gọn, dễ lắp đặt, giá rẻ nhưng chất âm chưa hoàn hảo.
>>> Những bộ dàn 10 triệu đồng đáng chú ý
Một hệ thống rạp hát tại gia của Onkyo.
Một hệ thống rạp hát tại gia của Onkyo.
Ảnh: Hometheater.
Thiết lập một hệ thống rạp tại gia đúng nghĩa có thể sẽ trở nên rất phức tạp và thường phải cần đến những chuyên gia âm thanh. Nhưng vấn đề là hầu hết mọi người thường tự mua các thiết bị nghe nhìn và tự mình thiết lập. Nếu không quen và không có những hiểu biết nhất định, việc tự set-up có thể làm hỏng cả một hệ thống âm thanh chất lượng tốt.
Hệ thống rạp hát tại gia tất cả-trong-hộp, một khái niệm đã nhanh chóng trở thành dòng riêng với tên gọi tắt HTIB (Home Theater In a Box), có sẵn các thành phần cần thiết của một bộ rạp tại gia, trừ màn hình. Các thành phần này thông thường gồm một đầu receiver, một đầu đọc CD/DVD, từ 4 đến 5 loa con và một loa siêu trầm cùng với các dây nối thiết bị khác. Mặc dù hầu hết các bộ HTIB không thể tái hiện được đúng chất âm như một bộ rạp tại gia thực thụ, nhưng bù lại chúng rất dễ lắp đặt và lại không tốn nhiều không gian.
Giới công nghiệp âm thanh có nhiều ý kiến trái chiều về các bộ HTIB, một phần muốn lái khách hàng sang mua những sản phẩm chất lượng cao của mình. Số khác lại cho rằng chính việc đơn giản trong lắp đặt của các bộ HTIB khiến giới công nghiệp phải suy nghĩ lại về cách sản xuất những bộ rạp tại gia đúng nghĩa. Dù ở quan điểm nào, thực tế cho thấy rõ ràng HTIB vẫn đang tiếp tục tồn tại, tiếp tục tăng trưởng đều đều qua các năm kể từ lần đầu tiên ra mắt.
Với mức giá chỉ từ 200 USD tới 500 USD, HTIB ngày nay đã bắt đầu những xu hướng mới. Từ việc chỉ nhắm tới những khách hàng tài chính hạn chế, các nhà sản xuất danh tiếng từ Onkyo, Klipsch, KEF hay Infinity đang dần giới thiệu những bộ HTIB trung và cao cấp với chất lượng và giá cả cũng ngày một cao hơn.
Dưới đây là những đánh giá về ưu và khuyết của những bộ rạp HTIB.

Ưu điểm

HTIB có thiết kế nhỏ gọn của Klipsch.
HTIB có thiết kế nhỏ gọn của Klipsch.
Không phải ai cũng có sẵn vài ngàn USD để phục vụ cho nhu cầu xem phim nghe nhạc tại gia. Chính vì thế, các bộ HTIB là lựa chọn tối ưu cho những người vốn hạn hẹp về tài chính nhưng vẫn muốn trải nghiệp chất lượng âm thanh như rạp trong căn nhà của mình.
Ngoài yếu tố giá cả, HTIB còn hấp dẫn ở chỗ người mua có thể dễ dàng đặt nó ở bất kỳ đâu trong ngôi nhà, từ phòng khách, phòng ăn tới phòng ngủ. Các loa nhỏ của bộ HTIB có thể đặt dễ dàng trên sàn với chân đế, trên giá sách hay thậm chí treo tường.
Đơn giản hóa là một điểm hấp dẫn của HTIB. Một bộ trung bình có thể được lắp đặt trong vòng không hơn 30 phút,quá ngắn so với việc thiết lập một bộ rạp tại gia đúng nghĩa với các thiết bị rời. Trong khi các tay nghiền âm thanh thích bỏ cả ngày, thậm chí vài ngày vào việc xoay chuyển và lắp đặt thì những người tiêu dùng thông thường thích tiết kiệm thời gian bằng việc chỉ cần tập trung lắp một lần là xong. Chính vì thế, HTIB thường kèm theo những hướng dẫn hết sức trực quan, dễ theo dõi, kể cả với những người mới lần đầu tiên lắp đặt. Các dây dẫn thường được phân loại theo màu hoặc gắn nhãn riêng rất thuận tiện, người dùng chỉ việc lấy loa ra, đặt lên các vị trí có thể đặt trong phòng, gắn dây theo đúng màu hay mã vào bộ receiver là xong.
Loa của bộ HTIB thông thường làm bằng các vật liệu tổng hợp, vì thế có thể tạo ra rất nhiều hình dáng lạ mắt và độc đáo. Thêm vào đó, vật liệu tổng hợp cũng góp phần làm nên độ bóng bảy trang nhã cho các bộ đọc hoặc receiver, kết hợp với các loa tạo nên những vật trang trí hài hòa với các màn TV phẳng đời mới trong những căn hộ tiện nghi và hiện đại.
Nói gọn lại, HTIB là một giải pháp rẻ tiền nhưng vẫn giúp bạn tận hưởng được âm thanh rạp trong một không gian phòng tùy ý với mức giá rất hợp lý, chỉ từ 4 đến 5 triệu trở lên.

Nhược điểm

Vẫn có trên thị trường những bộ HTIB có chất lượng tốt đến từ các nhà sản xuất hi-end.
Vẫn có trên thị trường những bộ HTIB có chất lượng tốt đến từ các nhà sản xuất hi-end.
Tuy nhiên, không phải HTIB nào cũng tốt. Nhiều bộ có chất lượng khá tệ, cộng với các chất liệu làm loa khá ọp ẹp và không được chắc chắn. Nhiều bộ HTIB có dải tần hạn chế, không thể đủ để đem đến một âm trường đủ rộng như các bộ rạp tại gia đúng nghĩa được. Các loa siêu trầm rẻ tiền cũng thường không có đủ công suất để sản sinh ra các tiếng trầm tự nhiên hòa quyện hoàn toàn với âm cao từ các loa surround.
Các receiver tích hợp cũng không phải là ngoại lệ. Công suất của recever để loa kêu không khó, nhưng để cho ra chất âm đủ tốt thì công suất phải đủ lớn. Nói cách khác, các loa có chất lượng kém lại kèm với một ampli đuối sẽ dẫn tới hiện tượng âm thanh yếu, không tự nhiên, kém đi độ trong và độ chi tiết. Trong lĩnh vực nghe nhìn nói chung, thường bộ nào càng rẻ tiền, âm thanh bộ đó càng tệ.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là các bộ HTIB khó có thể nâng cấp được. Hầu hết các receiver đi kèm chỉ có một số lượng cổng vào nhất định dành cho kết nối các thiết bị khác. Khó có thể trông chờ những cổng ra DVI hay HDMI ở các bộ này. Do thiết kế gộp nên sau này bạn muốn bổ sung thêm các đầu DVD cao cấp hay Blu-ray hay đầu ghi DVD cũng không phải là chuyện dễ dàng gì. Các kết nối đặc dụng một mặt giúp dễ dàng thiết lập những đồng thời cũng làm hạn chế khả năng nâng cấp các thiết bị khác. Việc nâng cấp các loa cho hệ thống HTIB thậm chí còn khó khăn hơn bởi các loa này đã được trang bị sẵn các mạch khuếch đại đồng bộ với receiver để cho chất âm tối ưu, vì thế thay loa khác, hay loa từ các hãng khác là gần như không thể.
Tất nhiên, hầu hết các nhà sản xuất cũng không mong việc bạn sẽ thiết lập một hệ thống rạp tại gia đúng nghĩa từ các bộ HTIB cơ bản. Vẫn có trên thị trường những bộ HTIB có chất lượng tốt đến từ các nhà sản xuất hi-end.
Tự trung lại, có thể nói các bộ HTIB là lựa chọn tối ưu nếu như là một bộ thứ hai chuyên cho các không gian nhỏ trong căn nhà bên cạnh các bộ đúng nghĩa. Nó cũng phù hợp với những người túi tiền không rủng rỉnh và không muốn đau đầu trong việc tìm cách sắp xếp, kê dọn, xoay chuyển và thử nghiệm như đối với một bộ rạp tại gia đầy đủ.

 

Những bộ dàn 10 triệu đồng đáng chú ý

5 hệ thống âm thanh này đều của các hãng điện tử hàng đầu thế giới, giá rẻ nhưng nhiều tính năng, thiết kế rút gọn rất phù hợp với gia đình nhỏ.
Cách đây vài năm, HTIB (Home Theater In A Box) giá rẻ còn khá hiếm và chỉ là thị trường của một số ít tên tuổi điện tử tiêu dùng hàng đầu. Giờ đây, cuộc cạnh tranh ở phân khúc này đã rất căng thẳng với sự có mặt của khá nhiều nhà sản xuất cùng nhiều công nghệ tiên tiến.
Tuy nhiên, trong khoảng giá 12 triệu, sẽ có một số tính năng thiếu vắng như Wi-Fi tích hợp, loa con không dây. Thiết kế cũng sẽ thiên về xu hướng khá rút gọn và đơn giản.
Dưới đây là danh sách một số HTIB giá rẻ nổi bật trên thị trường.

LG HB806TM

Sản phẩm sở hữu dàn loa con ấn tượng.
Sản phẩm sở hữu dàn loa con ấn tượng.
LG HB806 sở hữu bốn loa cột đứng và thiết kế sang trọng, một đặc điểm khá ấn tượng đối với một HTIB giá rẻ.
Bên cạnh khả năng chơi đĩa Blu-ray 3D, sản phẩm còn được cấp chứng chỉ DLNA về khả năng kết nối và chia sẻ nội dung đa dạng với các sản phẩm khác. Ngoài ra, HB806TM còn hỗ trợ định dạng video nén như DivX HD hoặc MKV.
Với mức giá 10 triệu đồng, LG HB806TM xứng đáng một vị trí trong danh sách những HTIB giá rẻ đáng chú ý.

Panasonic SC-BTT270

Giá SC-BTT270 phù hợp với khả năng đa dạng của sản phẩm.
Giá SC-BTT270 phù hợp với khả năng đa dạng của sản phẩm.
Đại diện của Panasonic cũng sở hữu khá nhiều công nghệ hiện đại như 3D Blu-ray, âm thanh surround 3D cải tiến theo chiều dọc, khả năng kết nối mạng Internet và dock tích hợp cho iPod, iPhone giúp người dùng thưởng thức âm thanh số nhanh chóng và tiện lợi.

Pioneer HTZ919BD

Sản phẩm là một trong số ít HTIB sơ cấp sở hữu cồng HDMI.
Sản phẩm là một trong số ít HTIB sơ cấp sở hữu cồng HDMI.
HTZ919BD là một hệ thống Blu-ray 3D với dàn loa 5.1 công suất 1.100W thích hợp cho việc sử dụng trong các phòng giải trí tại gia lớn. Bên cạnh đó là các tính năng cần có như hỗ trợ các định dạng nén khác nhau, kết nối Internet và truy cập vào Youtube, Picasa, AccuWeather bằng các phần mềm được tích hợp.
Về kết nối, sản phẩm được chứng nhận DLNA 1.5 đảm bảo phối ghép được với đa dạng các thiết bị điện tử. 2 cổng HDMI và cổng audio quang đầu vào cũng là một điểm cộng cho đại diện Pioneer.
Sản phẩm có giá tham khảo 12 triệu đồng.

Sony BDV-E380

Sản phẩm có mức giá ấn tượng.
Sản phẩm có mức giá ấn tượng.
HTIB sơ cấp từ Sony cho hiệu năng/giá thành khá ấn tượng. E380 hỗ trợ đầy đủ các tính năng cơ bản như Blu-ray 3D, các định dạng nén phổ biến, truy cập Internet qua Bravia Internet Video và mic hiệu chỉnh âm thanh.
Điểm đặc biệt của đại diện từ Sony là thiết kế nguyên khối đặc trưng rất sang trọng. Tuy nhiên, điểm trừ của là E380 không hỗ trợ kết nối HDMI phổ biến.

Samsung HT-D5530W

Giá mới của HT-D5530W giảm mạnh.
Giá mới của HT-D5530W giảm mạnh.
Xuất hiện lần đầu tiên trong phân khúc cao cấp với mức giá lên đến gần 22 triệu đồng, HT-D5530 không chứng tỏ được nhiều so với nhiều đối thủ cạnh tranh chủ yếu bởi dàn loa con không mấy ấn tượng. Tuy nhiên, giá mới của sản phẩm, tầm 12 triệu đồng, lại khiến đại diện từ Samsung thành một sản phẩm rất đáng giá ở tầm phổ thông.
Điểm nổi bật ở HT-D5530W là kết nối không dây hiếm gặp ở các sản phẩm sơ cấp. Sản phẩm sở hữu loa con wireless và cả Wi-Fi tích hợp. Bên cạnh đó, HTIB Samsung cũng hỗ trợ hai kết nối HDMI đầu vào hữu dụng.
Theo Sohoa

http://www.quantrimang.com.vn/thietbiso/thiet-bi-so/thu-thuat-tbs/84285_Uu-va-nhuoc-cua-he-thong-HTIB.aspx 

  

ĐỂ "RESUME" VÀ "SPEED UP" IDM THÀNH CÔNG VÀ HIỆU QUẢ

Nếu cách đây vài năm, Flash Get 30, 40 còn độc chiếm dùng để tải file trên mạng về nhưng giờ đây Internet download manager 607 (hay IDM) hầu như độc quyền trong vấn đề tăng tốc tải file HD trên mạng. Nguyên nhân là do IDM nối lại các file lẻ (cắt nhỏ trong khi tải) tải về có tỉ lệ thành công cao hơn Flash Get rất nhiều.

Tuy vậy, IDM vẫn còn một vài lỗi khá bực mình đến giờ vẫn chưa khắc phục được dù qua đến build 14 của bản 607. Đó là 2 vấn đề sau mà chúng ta phải tìm cách tháo gỡ để không còn các file tải về hư giữa chừng nữa, nhất là file phim HD lớn hàng chục GB.

1) Tính năng Resume

Đây là một trong các đặc tính quan trọng của các mạng chia sẻ như Fileserve, File sonic.. và của IDM nhưng tính chất dù tốt nhưng hay bị trục trặc nhiều nhất.
a) Đột nhiên, trong danh sách file đang tải về trong IDM bạn thấy có file tốc độ đang từ cả trăm chục KB xuống còn 0kb/sec. Đó là hiện tượng file đang tải ấy không còn resume được. và bạn cần chỉnh lại ngay.
- Bạn ấn nút phải vào file tốc đọc 0kb/secvà chọn resume chờ đợi một vài phút. Nếu may mắn file ấy resume và tốc độ trở lại vài chục kB/sec.
Để "Resume" và "Speed up" IDM thành công và hiệu quả
Điều bực mình nhất với IDM là đôi lúc lại không có dòng resume (bị mờ đi), bạn chỉ có ấn vào stop download và chờ vài chục giây coi có resume lại được không. Điều này sẽ càng khó chịu hơn khi chỉ có dòng Stop mà mục Resume vẫn không sao hiện ra.
- Lúc ấy cách giải quyết hiệu quả là bạn chọn vào Tasks/ Exit để thoát ra hay đóng IDM lại rồi mở trở lại.
Để "Resume" và "Speed up" IDM thành công và hiệu quả
- Nếu gặp may mắn là dòng Resume trong file treo lúc nãy hiện ra và bạn sẽ tải về được tiếp tục. Làm vậy, các file đang tải tốt với tốc độ cao cũng ngừng theo và bạn phải resume toàn bộ chúng,

- Đôi lúc dù bạn có đóng IDM rồi mở trở lại vẫn không kết quả, bạn buộc phải reboot lại cả Windows, IDM mới cho phép resume lại file bị treo ấy được.

Dưới đây là giải phảp sau cùng cần đến khi biện phảp trên vẫn không thành công.

- Khi đóng IDM hoặc reboot máy lại các files đang tải sẽ ngưng và bạn phải ấn lại resume cho các files này lại.
- Lưu ý là khi có một vài files đang làm rebuilding ghép lại, tuyệt đối bạn không nên đóng IDM hay reboot máy, các files này sẽ hư và phải tải về từ đầu.
b) IDM không cho Resume tiếp nhưng lại bắt cập nhật weblink (refresh download address).
- Thường là nó mở lại IE nếu là trình duyệt web default với đường link của file đang ngừng tải ấy.
- Bạn phải chờ một lúc và nó thường bắt bạn login user và password của trang mạng chia sẻ ấy mới cho lại link mới.
Để "Resume" và "Speed up" IDM thành công và hiệu quả
- Có khi nó cho một link mới nhưng bắt bạn phải tải về lại ngay từ đầu. nếu đấy là file vài chục KB không nói gì mà đầy là file phim HB thường là cả GB nếu phải tải từ đầu thì mất thì giờ vô cùng. Bạn dùng link mới trong file đề nghị tải từ đầu, copy riêng link mới này sau đó chép lại vào address của chính file cũ đang ngưng không tải về và chọn resume lại: Chỉ làm thế, bạn mới tiếp tục tải về tốt được file bị ngưng nửa chừng. Ngừng tải và xoá file bắt tải về từ đầu.

2) Tăng tốc (Speed up) tối đa cho việc tải file trong IDM 607:

a) Khi đột nhiên bạn thấy tốc độ tải file chậm lại, chỉ còn vài kb/sec thay vì vài chục hay trăm KB,. Bạn nên chọn vào task rồi chọn exit để thoát khỏi chương trình rồi mở IDM lại. Tốc độ sẽ được cải thiện tốt lại ngay nhưng chắc không còn như rùa bò như trước nữa.

b) Có thể vừa dùng wireless tải file và cả dùng thêm dây LAN gắn vào thêm; tốc độ cũng tải tốt hơn nhất là khi wireless đặt sát máy laptop: nên dùng thêm dây LAN ngoài wireless.

c) Nhưng cách hiệu quả nhất là bớt đi bandwith mặc nhiên 20o/o mà windows 7 thường dùng cập nhật các hotfix mà đôi lúc chưa cần xài, nhất là khi bạn chọn update theo yêu cầu. Bạn sẽ tăng tốc được IDM khá nhanh bắng thủ thuật sau:
- Ở Start/Run --> đánh vào gpedit.msc để mở ra Group policy editor của Win 7.
Để "Resume" và "Speed up" IDM thành công và hiệu quả
- Tìm đến dòng: Local Computer Policy/Computer Configuration/Administrative Templates/Network:
- Tìm ra dòng QOS Packet Scheduler/Limit Reservable Bandwidth.
Click đôi vào vào Limit Reservable bandwidth, đổi từ Not configured thành Enable thay đổi thiết lập mới cho nó, từ 20% còn 0. Sau khi bạn làm cả 3 cách trên cho IDM giờ bạn sẽ thấy tốc độ tải file IDM tăng lên đáng kể như trước đây, tốc độ Mega family 300kg/sec tối đa lên đến 500kb/sec hay 700KB/sec..
Theo XHTT 


http://www.quantrimang.com.vn/kienthuc/thu-thuat/84277_De-Resume-va-Speed-up-IDM-thanh-cong-va-hieu-qua.aspx  

HƯỚNG DẪN KHẮC PHỤC LỖI MẠNG WINDOWS 7

QuanTriMang - Thiết lập và duy trì mạng gia đình dễ dàng hơn bao giờ hết với hệ điều hành Windows 7. Tuy nhiên, điều này cũng không hẳn đúng. Vẫn còn rất nhiều vấn đề liên quan tới mạng chưa được giải quyết trong bảng Control Panel của Windows 7. Đó chính là lý do tại sao chúng tôi viết bài này, liệt kê những lỗi phổ biến liên quan tới mạng cùng cách “điều trị” chúng.

Đặt lại địa chỉ IP

Nếu kết nối hệ thống tới mạng không đáng tin cậy, hoặc bạn nhận được message thông báo địa chỉ IP bị tùng, hãy thử một địa chỉ IP mới. Trước tiên, kích vào nút Start, điều hướng tới Command Prompt (Start MenuApplicationsAccessoriesCommand Prompt), phải chuột vào nó và chọn Run as Administrator từ menu. Sau đó gõ ipconfig /renew và nhấn Enter.
Đặt lại địa chỉ IPTạo mới địa chỉ IP của hệ thống bằng công cụ ipconfig sẽ làm mới địa chỉ cũng như phục hồi kết nối của nó tới một mạng.

Xóa DNS Cache

Bất kì khi nào gõ một địa chỉ URL vào trình duyệt web, máy tính của bạn sẽ hỏi domain name service server (DNS server) dịch địa chỉ URL đó sang địa chỉ IP và cache thông tin đó. Cache này có thể bị lỗi thời hoặc bị lỗi, khiến kết nối Internet gặp vấn đề. Để dọn dẹp DNS cache, mở Command Prompt với quyền Run as Administrator, gõ ipconfig /flushdns, và nhấn Enter.
Flush DNS cache
Flush DNS cache của một hệ thống sẽ xóa bất kì dữ liệu nào đã được lưu trên Domain Name Service.
Khởi động lại máy tính Windows 7 cũng sẽ xóa DNS cache của nó, nhưng nếu có bất kì ứng dụng nào có ý đồ thay đổi cache, thường xuyên xóa sẽ giúp giải quyết vấn đề.

Khởi động lại modem và router

Modem kết nối băng thông rộng tới Internet đôi khi gặp vấn đề và khởi động lại nó sẽ giúp giải quyết khó khăn. Cách này cũng có hiệu quả đối với kết nối giữa router và modem băng thông rộng.
Để khởi động lại modem băng thông rộng và router, ngắt kết nối với điện và cho modem cùng router nghỉ ngơi trong vòng 30 giây. Đừng nên nhấn nút power để khởi động lại bởi điều này chỉ giúp modem và router hoạt động ở trạng thái stanby thay vì ngắt toàn bộ điện. Tiếp đến, cắm lại điện để khôi phục hoạt động cho modem và router. Chờ một vài phút để modem tái thiết lập kết nối với Internet và tạo một đường liên kết vững chắc, sau đó cắm tiếp router. Một khi router đã khởi động xong hoàn toàn, thực hiện những bước đã nêu bên trên để đặt lại địa chỉ IP cho hệ thống.

Cấu hình bảo mật không dây

Với độ phổ biến ngày càng tăng nhanh của router không dây, vấn đề bảo mật mạng cũng cần được thiết lập. Khả năng thiết lập mạng không dây cho gia đình hoặc văn phòng sử dụng của người dùng thông thường là điều hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên, nó cũng khiến mạng của bạn rất dễ bị hack.
Mặc dù phương pháp cần thiết khi kích hoạt bảo mật mạng không dây sẽ khác nhau theo từng loại router nhưng nhìn chung, các bước truy cập lựa chọn thích hợp vẫn tương tự nhau.
Giả sử địa chỉ IP của router/gateway là 192.168.1.1 và bạn đang kết nối tới mạng đó, mở trình duyệt web trên một máy được kết nối với mạng bằng dây rồi gõ địa chỉ 192.168.1.1 vào mục địa chỉ. Sau đó, bạn sẽ thấy có cửa sổ yêu cầu nhập thông tin cần thiết để truy cập vào menu cấu hình của router (kiểm tra hướng dẫn để có được tên người dùng và mật khẩu mặc định của router nếu bạn chưa tự đặt lại. Nếu vẫn chưa đặt lại những thông tin này, hãy thay đổi chúng ngay để đề phòng những hoạt động xấu).
Cấu hình chặn truy cập trái phép
Để ngăn chặn những người không mong muốn truy cập vào mạng không dây, hãy kiểm tra xem mình đã bật một số tính năng bảo mật Wifi hay chưa.
Sau khi đã đăng nhập vào router, bạn sẽ thấy một số tab hoặc đường link dẫn tới các bảng điều khiển. Kích vào tab Wireless hoặc Wireless Security. Ở màn hình tiếp theo, bạn sẽ thấy một nơi có thể đặt Security Mode, với những lựa chọn như WEP, WPA, WPA2,.... Nếu hiện tại bạn đang sở hữu những thiết bị không dây có hỗ trợ các chuẩn trên, chúng tôi khuyến cáo nên sử dụng WPA2 Personal cho mạng gia đình bởi nó cung cấp khả năng mã hóa mạnh hơn so với các chuẩn khác. Nếu thiết bị của bạn không hỗ trợ WPA2, hãy thử WPA, hoặc WEP (phương pháp mã hóa yếu nhất trong các phương pháp). Sau đó, người dùng sẽ phải đặt loại mã hóa (TKIP or AES; một trong 2 là đủ) sau đó xác định key hoặc mật khẩu. Hãy tạo key hoặc mật khẩu thật khó đoán, bao gồm các ký tự đặc biệt, số và chữ cái. Lưu lại cài đặt và khởi động lại router; ít nhất cũng phải sử dụng mức độ bảo mật Wifi cơ bản.

Mở và Forward các cổng

Một số ứng dụng yêu cầu mở một số cổng mạng và forward chúng tới máy tính để một số chức năng của chúng có thể hoạt động qua web. Game server là ví dụ điển hình: Nếu cổng mạng cần thiết không được mở và yêu cầu gửi tới những cổng này không được forward tới đúng máy tính, lưu lượng inbound sẽ không bao giờ vượt qua khỏi firewall.
Mặc dù quá trình cụ thể để forward các cổng sẽ có sự khác biệt, các bước cần thiết để truy cập vào bất kì router nào vẫn giống nhau.
mở và forward các cổng
Trong ví dụ, incoming UDP và TCP traffic ở cổng 8888 – 8889 sẽ được forward tới máy tính có địa chỉ IP 192.168.1.115.
Kết nối máy tính tới mạng, mở trình duyệt web và điền địa chỉ IP của router vào (thường là 192.168.1.1; kiểm tra hướng dẫn để chắc chắn hơn) vào khu vực nhập địa chỉ. Đăng nhập với tên và mật khẩu, sau đó tìm NAT (Network Address Translation), Firewall, hoặc menu Port Forwarding.
Bạn cũng cần phải tạo tập hợp rule, cho router biết nên sử dụng giao thức nào (UDP, TCP, hay cả 2), xác định cổng muốn forward và xác định địa chỉ IP nào sẽ được forward lưu lượng trên các cổng. Ví dụ, nếu máy tính đang chạy ứng dụng gặp vấn đề có địa chỉ IP là 192.168.1.115, hãy đặt địa chỉ đó vào mục địa chỉ IP. Lưu lại cài đặt để kích hoạt rule, sau đó khởi động lại router để hoàn thành công việc.

Cho hệ thống vào DMZ

Đôi khi, forward cổng vẫn không đủ và bạn sẽ phải cho hệ thống của mình được truy cập tự do vào Internet. Trong những trường hợp như vậy, máy tính cần được cho vào mạng DMZ (demilitarized zone – khu vực phi quân sự). Cho hệ thống vào một DMZ có nghĩa là tất cả các cổng của nó hoàn toàn có thể truy cập từ Internet – một trường hợp rất nguy hiểm, vậy nên bạn chỉ sử dụng nó khi thực sự cần thiết.
cho hệ thống vào khu vực DMZ
Cho một hệ thống vào DMZ cho phép tất cả các cổng của nó có thể truy cập từ Internet.
Giả sử rằng địa chỉ IP của router là 192.168.1.1 và bạn đang kết nối tới mạng. Mở trình duyệt web ra và gõ 192.168.1.1 vào mục nhập địa chỉ. Đăng nhập vào router và tìm NAT (Network Address Translation), Firewall, hoặc menu DMZ.
Khi ở menu cấu hình DMZ, bạn cần phải kích hoạt DMZ và xác định địa chỉ IP của hệ thống muốn đặt vào DMZ. Điền địa chỉ IP, lưu các cài đặt và khởi động lại router. Như vậy, hệ thống của bạn đã góp mặt trong DMZ.

Cập nhật Network Driver

Cũng giống như các thiết bị ngoại vi khác trong máy tính Windows, network controller yêu cầu driver phải hoạt động. Những driver này sẽ cho hệ điều hành biết cách sử dụng một thiết bị và cần được cập nhật thường xuyên nhằm giải quyết các vấn đề hoặc thêm tính năng mới.
Cập nhật driver mạng trong Windows thường có thể hoàn thành theo 3 cách: qua phần mềm Windows Update, bằng cách download và chạy file cài đặt hoặc bằng cách chọn một driver nào đó qua Device Manager. Nếu có thể, hãy sử dụng phương pháp đầu tiên bởi cập nhật driver qua Windows Update rất dễ dàng và tự động. Bên cạnh đó, cài đặt thủ công một driver qua Device Manager cũng khá phức tạp.
Trong trường hợp đã download về một driver cho card mạng từ trang web của nhà sản xuất và file đó có chứa một vài file .inf hoặc một vài file khác, bạn sẽ phải cài đặt nó thủ công bằng cách sử dụng Windows Device Manager. Để thực hiện việc này, kích vào nút Start và gõ Device Manager trong mục search. Nhấn Enter để mở Device Mananger, tìm Network Adapters trong danh sách các thiết bị, phải chuột vào network controller, và chọn Update Driver Software từ menu.
Trong cửa sổ mới sẽ mở sau đó, kích vào nút Browse my computer for driver software, sau đó kích vào nút Browse và điều hướng tới folder, nơi bạn đặt driver mới đã download về. Kích vào nút Next, và driver sẽ được cài đặt tự động.

Disable hoặc thêm ngoại lệ cho Windows Firewall

Firewall tích hợp sẵn trong Windows 7 thường xuyên hỏi người dùng có cho phép hoặc từ chối một ứng dụng được phép truy cập vào Internet. Nếu chẳng may chặn một ứng dụng nào đó và lại thay đổi ý kiến, bạn sẽ phải thay đổi một số cài đặt trong Windows Firewall.
Disable hoặc thêm ngoại lệ cho Firewall
Bạn có thể chặn hoặc cho phép một phần mềm truy cập vào mạng qua Windows Firewall trong bảng Allowed Applications.
Kích vào nút Start, gõ Allowed Applications vào mục search và nhấn Enter. Trong cửa sổ kết quả, tất cả các ứng dụng cài đặt trên máy tính (được Windows Firewall đánh dấu) đều được liệt kê. Nếu có một ứng dụng nào đó giao tiếp với mạng qua Firewall mà giờ đây bạn muốn chặn nó, kích vào nút Change Settings ở trên cùng màn hình, sau đó cuộn chuột qua danh sách các phần mềm cho tới khi tìm thấy ứng dụng mình muốn chạn, và disable nó không được truy cập vào Internet qua mạng Home/Work hoặc Public. Ngược lại, nếu muốn cho phép một phần mềm nào đó truy cập vào Internet mà trước đó đã chặn, tìm nó trong danh sách và chọn hộp thoại tương ứng bên cạnh tên ứng dụng.

Quét toàn bộ mạng để tìm thiết bị đính kèm

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều thiết bị kết nối, đã đến lúc bạn nên quét toàn bộ mạng của mình để xem chính xác thiết bị nào đang tiêu tốn nhiều nguồn nhất với địa chỉ IP nó đang nắm giữ. Router có thể kiểm tra hiện trạng của những thiết bị đang kết nối với mạng, hoặc bạn có thể sử dụng ứng dụng bên thứ 3. Ứng dụng sẽ quét toàn diện tất cả các địa chỉ IP để tìm ra và lấy thông tin của thiết bị.
Angry IP Scanner
Angry IP Scanner sẽ quét toàn bộ mạng và xác định tất cả các địa chỉ IP đang sử dụng.
Rất nhiều công cụ miễn phí có sẵn trên thị trường hiện nay có thể quét mạng, nhưng phần mềm khiến chúng tôi ấn tượng nhất là Angry IP Scanner. Người dùng chỉ việc download và chạy file thực thi – phần mềm này thậm chí không cần cài đặt. Điền dải IP bạn muốn quét rồi kích nút Start. Một vài phút sau đó bạn sẽ nhận được một danh sách tất cả các IP đang được dùng, thời gian ping tới mỗi thiết bị, tên host của nó và nó mở cổng nào. Phải chuột vào một thiết bị nào đó trong danh sách để có thêm thông tin chi tiết; nó cũng sẽ cho phép bạn ping địa chỉ IP và kết nối qua trình duyệt web hoặc ứng dụng FTP.

Chẩn đoán các vấn đề kết nối Internet

Cuối cùng, một vấn đề có thể xảy ra khi sử dụng mạng: Kết nối mạng không ổn định và bạn lại không thể chỉ ra lý do tại sao? Một vài công cụ được tích hợp sẵn trong Windows 7 có thể giúp ích. Ping và tracert (hay traceroute) sẽ giúp tìm ra liệu các lỗi của Internet thuộc về mạng gia đình hay do nhà cung cấp hay lý do nào khác.
Ping địa chỉ IP
Công cụ ping có thể sử dụng để ping liên tiếp một địa chỉ IP nhằm kiểm tra các vấn đề kết nối.
Thực hiện ping liên tiếp tới một trang web nổi tiếng nào đó (có thể sử dụng Google.com) cho phép người dùng giám sát một kết nối và xem liệu các gói có bị mất hay kết nối bị ngắt quãng. Mở cửa sổ Command Prompt (Start → All Programs → Accessories → Command Prompt), gõ ping google.com –t, và nhấn Enter. Máy tính của bạn sẽ bắt đầu ping liên tiếp tới trang web của Google. Nếu thấy kết nối ổn định và đáng tin cậy, bạn sẽ không thấy bất kì lỗi nào, chỉ có trả lời từ địa chỉ IP với thời gian và các dữ liệu khác. Tuy nhiên, nếu kết nối giữa máy tính và Google bị mất do bất kì lý do gì, ping sẽ báo cáo không có bất kì trả lời nào từ server.
Tracert là một công cụ hữu ích khác, có khả năng liệt kê tất cả các route và tính toán lưu lượng trì hoãn của các gói tin qua một mạng. Để sử dụng tracert, mở cửa sổ lệnh ra rồi gõ tracert google.com. Nó sẽ mở ra bản đồ về đường từ máy tính tới Google server, liệt kê địa chỉ IP của server và chuyển ngược lại. Thông thường, gói tin đầu tiên sau một vài giây sẽ đi từ mạng gia đình của bạn, sau đó qua nhà cung cấp ISP của bạn, sau đó sẽ tìm cách tới Google.com. Nếu gói tin này không vượt qua khỏi mạng của bạn, vấn đề nằm ngay bên trong mạng. Nếu nó không thể vượt qua mạng của nhà cung cấp ISP, có thể nhà cung cấp ISP đã bị mất mạng hoặc lỗi thiết bị.

Lamle (Theo PCworld)

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2011

FACEBOOK TIMELINE CHÍNH THỨC RA MẮT NGƯỜI DÙNG TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Sau khi được giới thiệu tại F8 từ tháng 9 và cung cấp cho người dùng tại Úc, tính năng Timeline cuối cùng cũng được cung cấp cho toàn bộ người dùng Facebook.
Thay vì việc liệt kê các thông tin cá nhân như bình thường, Timeline sẽ hiển thị chi tiết những thông tin xung quanh cuộc sống của chủ trang Facebook. Những bức ảnh, status, video clip được hiển thị rất to, rõ ràng và được sắp xếp theo thanh thời gian ở phía góc trên bên phải. Với đúng nghĩa “Timeline”, người dùng có thể xem lại những hoạt động của một ai đó trong một khoảng thời gian cụ thể.
Điểm nhấn của giao diện có lẽ là bức hình lớn Cover ở phần trên cùng của trang, đây là một điểm mới so với giao diện trắng đơn giản trước đây.
Một tính năng mới được thêm vào là Activity Log cho phép người dùng quản lí tất cả các thông tin được hiển thị trên Timeline. Giao diện của Activity Log thực chất là Timeline rút gọn cung cấp cho người dùng các tùy chọn như ẩn hoặc xóa thông tin.
Giống như tất cả những lần thay đổi lớn khác của Facebook, Timeline đã nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhiều người cho rằng việc thông tin cá nhân được hiển thị quá chi tiết và dễ dàng truy cập như thế này có thể dẫn tới việc trộm cắp danh tính.
Hiện tại, Timeline đang ở trong giai đoạn 7 ngày thăm dò, và người dùng có thể xem xét tất cả các tính năng cũng như quyết định những thông tin nào sẽ được hiển thị. Một khi người dùng đã chuyển sang Timeline, giao diện này sẽ được giữ nguyên đến hết 7 ngày đó. Người dùng cũng có thể chuyển về giao diện cũ qua một số thủ thuật nhỏ được đăng rất nhiều trên mạng.
Timeline cũng đã được cung cấp cho các thiết bị Android cũng như phiên bản dành cho điện thoại của Facebook tại địa chỉ m.facebook.com.
Với những ai chưa dùng Timeline và muốn thử trải nghiệm nó, hãy truy cập vào trang http://www.facebook.com/about/timeline và nhấn chọn nút Get Timeline.

Giới thiệu về Facebook Timeline
Theo Mashable 
http://www.thongtincongnghe.com/article/31272

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2011

Google kết hợp Google+ với Blogger

TTO - Vừa bổ sung khả năng nhận diện khuôn mặt trên ảnh cho Google+, Google lại tiếp tục gia tăng sức nặng cho mạng xã hội của mình bằng chức năng blog, kết nối từ chính dịch vụ Blogger nổi tiếng của mình.
Theo đó, tất cả những tài khoản đang sử dụng dịch vụ Google Blogger đều có thể kết nối blog của mình vào trong phần tài khoản Google+ (profile).
Sau khi đã kết nối blog của mình vào tài khoản Google+, mỗi khi xuất bản một bài viết (entry) lên blog của mình tại Blogger, một cửa sổ chia sẻ sẽ hiển thị, hỏi bạn có muốn đưa entry đó vào phần luồng tin (feed) trên Google+ hay không (Share on Google+). Cửa sổ chia sẻ cũng cho phép chọn lựa những nhóm bạn bè (Circles) nào có thể đọc được entry blog.
Cửa sổ chia sẻ blog với Google+, một tính năng mới cho người dùng Blogger, hiển thị tiêu đề liên kết đến entry tại Blogger, nội dung ngắn và hình ảnh - Ảnh: Google
Mời bạn đọc cùng tham gia trang Google+ Pages của Tuổi Trẻ Online tại đây để cập nhật thông tin từ tuoitre.vn mỗi ngày.
Trong tháng 11, dịch vụ Blogger bắt đầu cho phép người dùng kết nối thông tin cá nhân (profile) của mình với tài khoản Google+. Một bước đi theo đúng lộ trình đồng nhất tất cả các dịch vụ trên một nền tảng mạng xã hội của Google, dựa trên Google+. 
Hơn nữa, Blogger là dịch vụ blog đa năng và linh hoạt, cho phép tùy biến rất nhiều nên sẽ giúp Google+ thắng thế trước chức năng viết blog qua module Note nghèo nàn về chức năng trong Facebook hiện nay.
Blogger hiện là một trong những dịch vụ cung cấp blog lớn nhất hiện nay, số lượng người dùng rất lớn, cùng cạnh tranh với WordPress. Blogger cũng được cộng đồng blogger tại Việt Nam ưa dùng bên cạnh dịch vụ blog của Yahoo!.
Nếu không muốn kết nối Blogger và Google+, bạn có thể vào phần thiết lập "Settings > Posts and Comments" trong Blogger để hiệu chỉnh.
Trong tuần này, Google cũng đã bắt đầu thử nghiệm đưa nhóm danh bạ bạn bè trong Google+ hay còn gọi là Circles (Vòng tròn bè bạn) vào trong dịch vụ Gmail, cho phép chia sẻ, gửi email nhanh cho người quen ở Google+ ngay trong hộp thư Gmail.
PHONG VÂN

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri

Với sự xuất hiện của siri khi ra mắt iPhone 4s, đã có rất nhiều sự thay đổi trong việc sử dụng iPhone sao cho thuận tiện hơn để siri có thể hiểu được. Rất tiếc là hiện giờ Siri mới chỉ hỗ trợ tiếng Anh, Pháp và Đức (bản tiếng anh có lẽ được làm tốt nhất). Mình làm topic này mong chia sẻ một vài kinh nghiệm sử dụng siri cho người Việt mình có thể sử dụng hiệu quả hơn, mong các bạn cùng đóng góp ý kiến, mình sẽ cố găng cập nhật hàng ngày.

1/ Sử dụng Contact một cách hiệu quả hơn với NICK NAME.

Một trong những chức năng hàng đầu của siri và có lẽ được sử dụng nhiều nhất đó là mệnh lệnh để gọi một ai đó. Thay vì thay đổi tên các contact như "vợ yêu" thành "wife" hay "nhà" thành "home", các bạn hãy sử dụng NICK NAME để giữ nguyên tên contact mà siri vẫn hiểu. Các bước làm rất đơn giả.

Bước 1: Chọn 1 contact và chọn edit, scroll down hết xuống dưới cùng và chọn add field

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri

Bước 2: Chọn Nick Name:

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri


Bước 3: Gán 1 nick name bằng tiếng anh cho contact đó. Ví dụ "Vợ" thì gắn thành "wife". Nick Name sẽ xuất hiện dưới ô First name ở trong contact sau khi các bạn add field.

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri

and DONE.

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri

Bây giờ các bạn có thể vô tư sử dụng Siri mà vẫn giữ nguyên contact tiếng việt của mình.

Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri

Có một đặc điểm rất hay là bạn có thể ra lệnh cho siri" Call me boss" Siri sẽ tự động thay đổi nick name của contact chính bạn thành boss và gọi bạn là boss Chia sẻ kinh nghiệm sử dụng Siri.
http://www.tinhte.vn/f169/chia-se-kinh-nghiem-su-dung-siri-930503/

Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7

Thanh Command Bar trong Windows Explorer chứa rất nhiều các nút lệnh giúp người sử dụng nhanh chóng thực hiện các chức năng thường gặp như Cut, Copy, Paste,… . Và tùy nhu cầu bạn chỉ muốn sử dụng một số nút lệnh nhất định. Thủ thuật Registry dưới đây sẽ giúp bạn điều chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7 theo ý muốn.


Sau khi thực hiện thủ thuật này bạn có thể thêm các nút như Cut, Copy, Paste, Delete, Rename, Select all, Undo, Redo, Properties, Menu bar, Details pane, Preview pane, Navigation pane Close vào thanh Command Bar hay thanh Toolbar của Windows 7.

Một số điều quan trọng nên biết trước khi tiếp tục thao tác

-Windows sử dụng khóa FolderTypes ở bước 2 để hiển thị các nút lệnh trên thanh Command Bar trong mỗi thư mục của Windows Explorer. Đó là lý do tại sao bạn thấy các nút lệnh khác nhau trên thanh Command bar ứng với các loại thư mục khác nhau

-Windows thay đổi các nút này tự động dựa trên các công việc mà người dùng định nghĩa. Chẳng hạn nó sẽ hiển thị nút lệnh khi bạn mở một thư mục hoàn toàn khác với khi bạn chọn lựa một đối tượng trong thư mục đó


-Những sự thay đổi tự động này xảy ra dựa trên hai khóa Registry là TasksItemsSelected TasksNoItemsSelected



-Khi bạn mở một thư mục, nút lệnh sẽ được hiển thị dựa trên các định nghĩa được lưu trữ trong khóa TasksNoItemsSelected. Khi bạn chọn lựa một đối tượng bất kì trong đó, các nút lệnh sẽ được hiển thị dựa trên các định nghĩa được lưu trữ trong khóa TasksItemsSelected

-Nếu chẳng may trong khi thao tác bạn bắt gặp thông báo như dưới đây đồng nghĩa bạn không có đủ quyền hạn để truy cập vào các khóa hệ thống.

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7
Do đó bạn phải tiến hành cấp phép sử dụng các khóa này bằng cách nhấn phải chuột vào khóa muốn lấy quyền truy cập, chọn Permission. Trong giao diện hiện ra bạn nhấn nút Advanced, chuyển sang thẻ Owner và chọn tên người dùng đang sử dụng, đánh dấu chọn vào mục Replace owner on subcontainers and objects để có quyền chỉnh sửa được các khóa con.

Tiếp theo trong thẻ Permissions bạn đánh dấu vào 2 tùy chọn Include inheritable permissions from this object's parent Replace all child object permissions with inheritable permissions from this object. Quay trở lại hộp thoại đầu tiên bạn chọn tên người sử dụng, đánh dấu vào ô Allow ở phần Full Control xong nhấn Apply >> OK.

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7


Các bước tiến hành

Bước 1: Đầu tiên bạn gõ regedit trong hộp thoại RUN hay Start menu và nhấn phím Enter để truy cập vào tính năng Registry Editor.

Bước 2: Trong giao diện Registry Editor bạn tìm đến khóa sau

HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{5c4f28b5-f869-4e84-8e60-f11db97c5cc7}
Chúng ta sẽ sử dụng khóa này để thêm các nút vào thanh Command bar đối với các thư mục thông thường

Bước 3: Dưới khóa {5c4f28b5-f869-4e84-8e60-f11db97c5cc7} bạn tạo ra 2 khóa con là TasksItemsSelected TasksNoItemsSelected

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7

Bước 4: Bạn cần thiết lập giá trị cho mục Default ở khung bên phải để hiển thị các nút lệnh sẽ xuất hiện trong Windows Explorer.

Như đã để cập ở trên, chúng ta sẽ sử dụng khóa TasksItemsSelected để hiển thị các nút lệnh khi một đối tượng được chọn trong Explorer và khóa TasksNoItemsSelected khi không có đối tượng nào được chọn, chẳng hạn như khi bạn mở một thư mục

Để thiết lập giá trị của mục default, chúng ta sẽ sử dụng các lệnh có sẵn của Windows được lưu trữ trong CommandStore của Registry. Trong Registry bạn duyệt đến đường dẫn HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\CommandStore\shell để thấy tất cả các giá trị

Có rất nhiều các lệnh được tích hợp tại đây như Windows, cut,… Sau đây là một số lệnh thú vị và hữu ích bạn có thể sử dụng trong bước 5

Windows.selectall
Windows.Cut
Windows.Copy
Windows.Delete
Windows.rename
Windows.properties
Windows.Paste
Windows.undo
Windows.redo
Windows.menubar
Windows.previewpane
Windows.readingpane
Windows.navpane
Windows.folderoptions
Windows.layout
Windows.closewindow

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7

Bước 5: Bạn chỉ cần lần lượt chọn lựa từng khóa mới đã tạo ra ở bước 3 và thiết lập giá trị default ở khung bên phải bằng các lệnh được đề cập ở bước 4

a.Tìm đến khóa
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{5c4f28b5-f869-4e84-8e60-f11db97c5cc7}\TasksNoItemsSelected để thêm các nút lệnh khi bạn mở một thư mục bất kì và không chọn lựa bất kì một đối tượng nào bên trong. Nếu bạn muốn thêm các nút lệnh khác bạn phải ngăn cách giữa hai giá trị bằng dấu chấm phẩy

VD: Ở khung bên phải bạn thiết lập giá trị ở phần Default chẳng hạn thành

Windows.selectall; Windows.Paste; Windows.undo; Windows.redo; Windows.menubar; Windows.previewpane; Windows.readingpane; Windows.navpane; Windows.closewindow
Giá trị trên sẽ thêm các nút là Select all, Paste, Undo, Redo, Menu bar, Details pane, Preview pane, Navigation pane và Close vào thanh Command Bar của Windows Explorer. Các nút bấm này sẽ chỉ xuất hiện khi bạn mở một thư mục và không chọn bất kì đối tượng nào bên trong đó

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7

b.Tìm đến khóa
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{5c4f28b5-f869-4e84-8e60-f11db97c5cc7}\TasksItemsSelected để thêm các lệnh khi bạn chọn một đối tượng trong một thư mục

VD:Ở khung bên phải bạn thiết lập giá trị mục Default chẳng hạn thành Windows.Cut; Windows.Copy; Windows.Delete; Windows.rename; Windows.properties; Windows.closewindow
Giá trị trên sẽ thêm các nút là Cut, Copy, Delete, Rename, Properties và Close vào thanh Command Bar của Windows Explorer.

[TIP] Tùy chỉnh các nút lệnh trên thanh Command Bar trong Windows 7
Lưu ý nút New folder luôn luôn xuất hiện ở cuối thanh Command Bar. Nếu bạn muốn hiển thị nó phía trước các nút do bạn tạo ra, bạn tìm đến khóa Windows.newfolder dưới mục HKEY_LOCAL_MACHINE\...\CommandStore\shell đã được để cập ở bước 4 và xóa đi mục Position ở khung bên phải.

Phương pháp trên sẽ thêm các nút vào các thư mục thông thường trong Explorer. Nếu bạn muốn thêm các nút bấm vào các thư mục hệ thống, chẳng hạn như Library,… bạn cần thực hiện các thao tác như trên nhưng ở các khóa sau


Main Library folder:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{5f4eab9a-6833-4f61-899d-31cf46979d49}

Documents Library:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{fbb3477e-c9e4-4b3b-a2ba-d3f5d3cd46f9}

Music Library:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{3f2a72a7-99fa-4ddb-a5a8-c604edf61d6b}

Pictures Library:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{0b2baaeb-0042-4dca-aa4d-3ee8648d03e5}

Videos Library:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\Curr entVersion\Explorer\FolderTypes\{631958a6-ad0f-4035-a745-28ac066dc6ed}

Nếu bạn cảm thấy khó khăn khi sử dụng các thủ thuật trên thì có thể tải về file REG đã được làm sẵn tại địa chỉ http://www.mediafire.com/?rab1aahix1dbkpa . Sau khi tải về bạn chỉ việc nhấp đôi chuột vào tập tin này , nhấn Yes khi có thông báo xuất hiện.


http://www.tinhte.vn/f201/tip-tuy-chinh-cac-nut-lenh-tren-thanh-command-bar-trong-windows-7-a-974715/

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí

Google vừa giới thiệu một ứng dụng đọc tin tức rất hay với tên gọi Google Currents. Điểm đặc biệt của ứng dụng này là khả năng hiển thị tin tức theo kiểu dàn trang của báo, tạp chí, mang lại trải nghiệm thú vị cho người dùng. Google Currents có thể đọc tin RSS của rất nhiều trang web thuộc các lĩnh vực khác nhau như xã hội, công nghệ, nhiếp ảnh, giải trí, thể thao,… Người dùng cũng có thể thêm vào RSS của trang web bất kì. Nội dung tin tức có thể được chia sẻ nhanh chóng (thông qua Facebook, Twitter, email,…) ngay trong Google Currents bằng tính năng Share. Ứng dụng này hoàn toàn miễn phí và tương thích với iOS và Android.

Liên kết tải về:
Google Currents cho iOS
Google Currents cho Android

Hướng dẫn cách thêm RSS Tinh Tế vào Google Currents:
  • Khởi chạy ứng dụng, nhấn biểu tượng kính lúp ở cạnh dưới màn hình
  • Trong ô tìm kiếm, nhập vào http://www.tinhte.vn/rss/
  • Nhấn nút "Add for free" rồi chờ ứng dụng đồng bộ
  • Thưởng thức "Tinh Tế" thôi.
Video giới thiệu Google Currents:




Một vài hình ảnh khác:

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí
Giao diện khởi đầu, liệt kê các trang tin

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí
Chia tin tức theo nhóm, rất đẹp

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí
Duyệt các tin gần đây

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí
Xem chi tiết một tin

Google giới thiệu Currents, trình đọc tin RSS trình bày giống tạp chí
Nhấn nút để thêm RSS Tinh Tế
http://www.tinhte.vn/f10/google-gioi-thieu-currents-trinh-doc-tin-rss-trinh-bay-giong-tap-chi-972943/

BẠN CÓ "DÁM" CHẠY ĐA NHIỆM, BẬT BLUETOOTH KHÔNG?

[Chia sẻ] Bạn có "dám" chạy đa nhiệm, bật Bluetooth không?

Tiêu đề hơi sốc nhưng mục đích mình lập topic này là để nói về cách mà chúng ta đang xài ĐTDĐ mà cụ thể hơn là Smartphone và máy tính các loại. Thông thường, mình hay thấy người Việt Nam chúng ta rất "tiết kiệm" trong việc sử dụng điện thoại, nào là không dám chạy đa nhiệm, tắt tất cả những phần mềm đang chạy ẩn, tắt luôn cả các kết nối, dịch vụ không dùng đến, thậm chí cả Bluetooth cũng không muốn/dám bật với lý do: sợ máy hết pin?!? Thú thật, mình cũng từng là một người có tâm lý như vậy. Nhưng làm như vậy khác nào ta đang đi ngược lại xu thế phát triển của thế giới công nghệ, luôn muốn đi lùi trong khi công nghệ thì đi tới?

Nhờ lại hồi Nokia bắt đầu tung ra những chiếc smartphone đầu tiên của mình chạy hệ điều hành Symbian có khả năng chạy đa nhiệm nhiều ứng dụng cùng lúc và hỗ trợ nhiều loại kết nối khác nhau. Đó là một bước tiến lớn của ngành công nghiệp điện thoại nhưng ngay lập tức, các tờ báo trong và ngoài nước bắt đầu xuất hiện các bài viết như "Thủ thuật tiết kiệm pin trên điện thoại", "Cách tăng thời lượng pin..." mà đa phần nội dung của các bài viết đó đều hướng dẫn cho người đọc cách để tắt các ứng dụng chạy ẩn, tắt các kết nối không dùng đến, xóa các ứng dụng có sẵn của hệ thống... Vô hình chung đã khiến cho rất nhiều bạn đọc, những người sử dụng smartphone lúc bấy giờ bị "nhiễm" luôn các lý thuyết và "nguyên tắc" sử dụng đó. Bản thân các bài viết đó không xấu, nhưng những người dùng như chúng ta lại quá nhuần nhuyễn lý thuyết đó, đâm ra cho đến ngày nay, rất nhiều người vẫn còn "sợ" để chiếc điện thoại yêu dấu của mình phải chạy đa nhiệm, luôn tìm mọi cách tắt tất cả ứng dụng chạy ẩn vì sợ nó phải làm việc nặng nhọc, không dám mở hết các kết nối mà máy hỗ trợ chỉ vì sợ máy sẽ mau hết pin. Như vậy chẳng khác nào có con trai mà không dám cho nó chơi thể thao, không dám cho nó cưới vợ vì sợ nó mệt?! Nếu điện thoại được làm ra với các tính năng ưu việt đó thì tại sao ta lại không sử dụng nó một cách triệt để?

Những lý thuyết tiết kiệm pin trên có thể đúng vào thời điểm trước đây, khi mà pin điện thoại còn yếu. Nhưng hiện nay, pin của hầu hết các smartphone ngày nay đều đã khá "chuẩn". Chuẩn ở đây mình nói chính là thời gian sử dụng, và mình tự cho trong bài viết này đó là chuẩn pin 1 ngày. Các smartphone ngày nay dù pin có tệ thế nào thì chí ít cũng xài được một ngày, tức là sạc qua đêm, sáng bắt đầu sử dụng đến chiều tối là gần hết với cường độ sử dụng điện thoại dày đặc. Lúc đó bạn cũng có thể về nhà và cắm sạc đi ngủ đến sáng rồi (mình không nói đến những ai phải làm việc nhiều ngày liên tục, không có cả thời gian của ban đêm để ngủ và sạc vì lúc đó họ sẽ tự biết cách dự phòng thêm 1 chiếc điện thoại nữa).

[Chia sẻ] Bạn có "dám" chạy đa nhiệm, bật Bluetooth không?
Hãy để smartphone được phục vụ bạn hết mức có thể


Mình đã thử dùng và trải nghiệm qua rất nhiều loại điện thoại khác nhau, từ Symbian S60v1 cho đến cả Symbian Belle, từ Android, iOS, MeeGo, Bada cho đến cả BlackBerry 9900 (vì đặc biệt pin của 9900 là khá tệ so với các máy BlackBerry khác) và rút ra một điều là: dù cho bạn có chạy đa nhiệm hay không (để nhiều chương trình chạy ẩn cùng lúc, không tắt), bạn có bật Bluetooth để kết nối với tai nghe không dây hay không thì pin của máy cũng không sụt giảm nhiều so với khi tắt hết tất cả những thứ đó. Từ đó mình đã mạnh dạn "xài" điện thoại hơn. Cái gì cũng bật và hầu như không bao giờ tắt. Kể cả khi mới khởi động lại máy thì mình cũng ngay lập tức mở ngay các chương trình thường dùng như Gallery, Google Maps, Note, Ghi âm, Lịch... và để cho chúng chạy ẩn. Để khi cần kíp, chỉ cần nhấn một phát là chương trình hiện ra ngay mà không cần phải chờ đợi.

Mặc dù thời gian khởi động nguội của các ứng dụng cũng khá nhanh, chỉ mất có 1, 2 giây nhưng nếu phải sử dụng chúng nhiều lần, hay khi trong những trường hợp cấp bách, cần kíp phải nhanh tay sử dụng ứng dụng đó ngay lập tức thì 1, 2 giây đó lại trở nên rất dài và dễ gây... nóng máu. Mình rất thích chạy đa nhiệm, mình thích khi cần chỉ việc ấn 1 cái là ứng dụng mở lên ngay mà không cần phải chờ đợi. Ngoại trừ một số máy quản lý đa nhiệm kém, xảy ra hiện tượng "lag" khi chạy đa nhiệm thì mình mới phải tắt bớt chương trình thôi. Còn đối với các máy quản lý bộ nhớ tốt như Android hay BlackBerry thì mình có thể chạy gần chục phần mềm cùng lúc mà máy vẫn hoạt động nhanh như gió.

Nếu bạn vẫn còn hoài nghi về việc này, mình khuyên các bạn là hãy thử bỏ ra 1 tuần để trải nghiệm chiếc smartphone của bạn một cách tối đa như cách mình đã trình bày ở trên. Sau đó tự so sánh cảm giác đó với cách mà bạn xài điện thoại trước đây rồi tự mình rút ra cách xài hiệu quả nhất. Nên nhớ là pin của điện thoại ngày nay đã tốt lắm rồi, các hệ điều hành cho di động ngày nay cũng khá thông minh, đủ để quản lý tốt các ứng dụng chạy đa nhiệm nên bạn không cần phải lo lắng nhiều về những yếu điểm trong quá khứ của chúng. Hãy để điện thoại được phục vụ chúng ta hết sức, đừng để ta phải phục vụ lại nó. Xin hết. Mời các bạn cùng chia sẻ cách sử dụng điện thoại thông minh của mình và bình luận một cách tinh tế [Chia sẻ] Bạn có "dám" chạy đa nhiệm, bật Bluetooth không?.

Giải đáp một số "bí ẩn" về ĐTDĐ:
  • Bí ẩn: Chạy nhiều ứng dụng làm máy chạy chậm hẳn?
  • Sự thật: Chỉ đúng với một số hệ điều hành nhất định. Ví dụ như Symbian phiên bản cũ (S60v3, S60v5), khi chạy nhiều ứng dụng thì máy sẽ chậm đi thấy rõ > nên tắt bớt. Còn đối với các hệ điều hành khác chẳng hạn như Android thì không có chuyện máy chậm khi có nhiều ứng dụng chạy ẩn, nếu có cũng rất hiểm xảy ra bởi vì khi thiếu bộ nhớ thì máy sẽ tự động tắt bớt các ứng dụng ít xài nhất. Đọc thêm 2 bài viết này: (Cập nhật) Nguyên nhân bạn không nên dùng task killer trên Android, P2: Google,LifeHacker,Cyanogen,... nói gì về task killer trên Android?
  • Bí ẩn: Mở Bluetooth rất dễ bị hack Bluetooth?
  • Sự thật: Hack được nếu nạn đang dùng các máy feature phone, tức điện thoại phổ thông nhưng có Bluetooth. Còn đối với smartphone thì máy sẽ yêu cầu xác nhận trước khi mở kết nối.
  • Bí ẩn: Chạy đa nhiệm hao pin?
  • Sự thật: Hầu như không đáng kể. Cứ yên tâm mà xài.
http://www.tinhte.vn/f10/chia-se-ban-co-dam-chay-da-nhiem-bat-bluetooth-khong-939861/

TÌM HIỂU VỀ CÔNG NGHỆ GIAO TIẾP TẦM NGẮN NFC

Một trong những công nghệ đang được chú ý phát triển trên điện thoại gần đây là NFC. NFC là tên viết tắt của Near Field Communication, tạm dịch là công nghệ giao tiếp tầm ngắn. Tuy nhiên, không ít người trong chúng ta vẫn còn khá mơ hồ về nó. Vậy NFC là gì? Chức năng của nó ra sao? Và tính khả dụng của NFC trong cuộc sống?


Tìm hiểu về công nghệ giao tiếp tầm ngắn NFC
Logo N-Mark của NFC Forum.
Trước tiên, chúng ta hay tìm hiểu sơ lược về NFC và lịch sử phát triển. NFC (Near Field Communication) được phát triển dựa trên nguyên lý tần số vô tuyến nhận dạng (Radio-frequency identification - RFID). RFID cho phép một đầu đọc gởi sóng radio đến một thẻ điện tử thụ động để nhận dạng và theo dõi. Phát minh đầu tiên gắn liền với công nghệ RFID được cấp cho Charles Walton vào năm 1983. Năm 2004, Nokia, Philips và Sony thành lập NFC Forum. NFC Forum đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển của công nghệ NFC. Forum luôn khuyến khích người dùng chia sẻ, kết hợp và thực hiện giao dịch giữa các thiết bị NFC. Thêm vào đó, đối với các nhà sản xuất thì NFC Forum khuyến khích phát triển và nhận định những thiết bị tuân thủ tiêu chuẩn NFC. Hiện tại, NFC Forum có 140 thành viên trong đó bao gồm rất nhiều cái tên như LG, Nokia, HTC, Motorola, NEC, RIM, Samsung, Sony Ericsson, Toshiba, AT&T, Sprint Nextel, Rogers, SK, Google, Microsoft, PayPal, Visa, Mastercard, American Express, Intel, Texas Instruments, Qualcomm và NXP. Năm 2006, NFC Forum bắt đầu thiết lập cấu hình cho các thẻ nhận dạng NFC (NFC tag) và cũng trong năm này, Nokia đã cho ra đời chiếc điện thoại hỗ trợ NFC đầu tiên là Nokia 6131. Tháng 1 năm 2009, NFC công bố tiêu chuẩn Pear-to-Pear để truyền tải các dữ liệu như danh bạ, địa chỉ URL, kích hoạt Bluetooth, v.v... Với sự phát triển thành công của hệ điều hành Android, năm 2010, chiếc smartphone thế hệ 2 của Google là Nexus S đã trở thành chiếc điện thoại Android đầu tiên hỗ trợ NFC. Cuối cùng, tại sự kiện Google I/O năm nay, NFC một lần nữa chứng tỏ tiềm năng của mình với khả năng chia sẻ không chỉ danh bạ, địa chỉ URL mà còn là các ứng dụng, video và game. Thêm vào đó, công nghệ NFC cũng đang được định hướng để trở thành một công cụ thanh toán trên di động hiệu quả. Một chiếc smartphone hay máy tính bảng với chip NFC có thể thực hiện giao dịch qua thẻ tín dụng hoặc đóng vai trò như một chìa khóa hoặc thẻ ID.

Tìm hiểu về công nghệ giao tiếp tầm ngắn NFC
Điện thoại Nokia 6131 hỗ trợ NFC đang nhận dạng các NFC tag.

Ứng dụng:

Các tiêu chuẩn NFC cho phép khách hàng nhanh chóng chi trả cho sản phẩm chọn mua và truyền tải dữ liệu qua lại giữa các thiết bị một cách an toàn. NFC cho phép các công ty giảm biên chế, chi phí in ấn, chi phí bán hàng và rất nhiều ứng dụng khác mà chúng ta có thể liệt kê dưới đây.

Mạng xã hội:

Mạng xã hội đã bùng nổ trên toàn thế giới và trên các thiết bị di động, mạng xã hội đã trở thành một yếu tố không thể thiếu song song với những tính năng cơ bản khác. Với sự hỗ trợ của NFC, người dùng có thể mở rộng và khai thác hiệu quả các tính năng như:
  • Chia sẻ tập tin: với việc kết nối 1 chạm giữa 2 thiết bị hỗ trợ NFC, người dùng có thể ngay lập tức chia sẻ danh bạ, hình ảnh, bài hát, video, ứng dụng hoặc địa chỉ URL;
  • Thẻ kinh doanh điện tử (electronic business card);
  • Tiền điện tử (electronic money): người dùng chỉ việc kết nối và nhập số tiền cần chi trả;
  • Chơi game trên di động: kết nối giữa 2 hay nhiều thiết bị để cùng chơi game.
Kết nối Bluetooth và WiFi:

NFC có thể được dùng để kích hoạt các kết nối không dây tốc độ cao để mở rộng khả năng chia sẻ nội dung. NFC có thể thay thế quy trình ghép nối khá rắc rối giữa các thiết bị Bluetooth hay quy trình thiết lập kết nối WiFi với mã PIN chỉ với việc để 2 thiết bị gần nhau để ghép nối hoặc kết nối vào mạng không dây.

Thương mại điện tử:

Tìm hiểu về công nghệ giao tiếp tầm ngắn NFC

NFC mở ra những cơ hội trong lĩnh vực thương mại điện tử, tăng tốc và độ chính xác khi giao dịch đồng thời góp phần giảm bớt chi phí nhân công:
  • Thanh toán qua điện thoại: Một thiết bị hỗ trợ NFC có thể thực hiện các giao dịch như thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ chỉ với việc cho điện thoại chạm vào thiết bị thanh toán đầu cuối hoặc máy tính tiền tự động;
  • PayPal: PayPal có thể sẽ khai trương dịch vụ thương mại qua NFC vào nửa cuối năm nay;
  • Mua vé: Thiết bị hỗ trợ NFC cho phép thanh toán nhanh các loại hình dịch vụ công cộng như vé tàu, vé xe bus, vé máy bay, vé xem phim, v.v...
  • Thẻ lên tàu: Thiết bị hỗ trợ NFC có thể đóng vai trò như một tấm thẻ lên tàu giúp giảm bớt sự chậm trễ trong quy trình kiểm tra (check-in) và nhân công;
  • Point of Sale: Năm 2006, NFC Forum đã công bố những hình mẫu NFC để một thiết bị hỗ trợ NFC có thể nhận dạng được. Tất cả các dấu hiệu đều được gọi chung là SmartPoster, người dùng chỉ việc cho máy quét qua SmartPoster là có thể xem được thông tin, nghe một đoạn nhạc, xem clip hoặc trailer phim.
  • Phiếu giảm giá: Cho thiết bị chạm vào một thẻ nhận dạng NFC hay SmartPoster, người dùng có thể nhận được phiếu giảm giá;
  • Hướng dẫn viên du lịch: Thiết bị sẽ đóng vai trò là người hướng dẫn khi giao tiếp với các thẻ NFC cho biết nội dung liên quan tại một viện bảo tàng (tương tự mã QR);
  • Thẻ ID: Một thiết bị hỗ trợ NFC có thể hoạt động như một tấm thẻ học sinh, thẻ nhân viên, thẻ chứng minh hay thẻ khám chữa bệnh;
  • Chìa khóa: Một thiết bị hỗ trợ NFC có thể hoạt động như một chiếc chìa khóa nhà, văn phòng hay thậm chí xe hơi.
Thông số kỹ thuật:

NFC được phát triển dựa trên nhiều công nghệ không dây cự ly ngắn, khoảng cách thường dưới 4 cm. NFC hoạt động theo tần số 13.56 MHz và tốc độ truyền tải khoảng từ 106 kbit/s đến 848 kbit/s. NFC luôn yêu cầu một đối tượng khởi động và một đối tượng làm mục tiêu, chúng ta có thể hiểu nôm na là một máy sẽ đóng vai trò chủ động và máy còn lại bị động. Máy chủ động sẽ tạo ra một trường tần số vô tuyến (RF) để giao tiếp với máy bị động. Vì vậy, đối tượng bị động của NFC rất đa dạng về hình thái từ các thẻ nhận dạng NFC, miếng dán, card, v.v... Ngoài ra, NFC cũng cho phép kết nối giữa các thiết bị theo giao thức peer-to-peer.

Loại hình NFC đang được ứng dụng hiện nay là thẻ nhận dạng NFC (NFC tag). Thẻ nhận dạng NFC có vai trò tương tự mã vạch hay mã QR. Thẻ NFC thường chứa dữ liệu chỉ đọc nhưng cũng có thể ghi đè được. Chúng có thể được tùy biến-mã hóa bởi nhà sản xuất hoặc sử dụng những thông số riêng do NFC Forum cung cấp. Thẻ NFC có thể lưu trữ an toàn các dữ liệu cá nhân như thông tin tài khoản tín dụng, tài khoản ghi nợ, dữ liệu ứng dụng, mã số PIN, mạng lưới danh bạ, v.v.. NFC Forum đã phân ra 4 loại thẻ NFC trong đó mỗi loại lại có tốc độ giao tiếp và khả năng được tùy biến, bộ nhớ, bảo mật và thời hạn sử dụng khác nhau.
  • Loại thẻ nhận dạng NFC hiện đang được cung cấp có bộ nhớ từ 96 đến 512 byte;
  • NFC sử dụng cảm ứng từ giữa 2 ăng-ten lặp đặt trên mỗi mặt tiếp xúc và hoạt động trên tần số 13.56 MHz;
  • Trên lý thuyết thì cự ly hoạt động giữa 2 ăng-ten tối đa là 20 cm nhưng trên thực tế chỉ khoảng 4 cm;
  • NFC hỗ trợ tốc độ truyền tải dữ liệu theo các mức từ 106, 212, 424 đến 848 kbit/s;
  • Thiết bị hỗ trợ NFC có thể nhận và truyền dữ liệu trong cùng 1 lúc. Vì vậy, thiết bị có thể nhận biết nhiễu loạn nếu tần số tín hiệu đầu thu không khớp với tần số tín hiệu đầu phát.
So sánh với Bluetooth:


NFC và Bluetooth đều là 2 công nghệ giao tiếp tầm ngắn và đều có thể tích hợp vào điện thoại di động. Như đã đề cập trong phần thông số kỹ thuật, NFC hoạt động với tốc độ chậm hơn so với Bluetooth và dĩ nhiên là tiêu thụ ít năng lượng hơn bởi NFC không yêu cầu phải ghép nối giữa 2 hay nhiều thiết bị như Bluetooth. NFC có quy trình thiết lập nhanh hơn kết nối Bluetooth và thay vì phải thiết lập bằng tay để nhận dạng thiết bị thì NFC lại thiết lập tự động, tốc độ thiết lập chỉ trong vòng 1/10 giây. Tuy nhiên, tốc độ truyền tải dữ liệu tối đa của NFC chỉ 424 kbit/s, thấp hơn nhiều so với Bluetooth 2.1 (2.1 Mbit/s) và cự ly hoạt động cũng giới hạn dưới 20 cm. Mặc dù vậy, NFC đặc biệt phù hợp khi sử dụng tại những khu vực đông người.

Trái ngược với Bluetooth, NFC tương thích với cấu trúc RFID bị động (13.56 MHz ISO/IEC 18000-3). NFC không yêu cầu nhiều năng lượng để hoạt động, tương tự giao thức Bluetooth 4.0 Low Energy. Tuy nhiên, khi NFC tương tác với các thiết bị không sử dụng năng lượng (Vd: thẻ nhận dạng NFC, SmartPoster, v.v...) thì NFC sẽ tiêu thụ nhiêu năng lượng hơn Bluetooth 4.0 Low Energy.

Khía cạnh bảo mật:

Mặc dù cự ly giao tiếp của NFC chỉ giới hạn trong một vài cm nhưng bản thân NFC không mang tính bảo mật cao. Năm 2006, hai nhà nghiên cứu Ernst Haselsteiner và Klemens Breitfuss đã mô tả những hình thức tấn công khác nhau nhằm vào NFC cũng như cách thức khai thác khả năng phản khán của NFC trước các hành vi tấn công nhằm thiết lập mã bảo mật riêng. Tuy nhiên, kĩ thuật này không phải là một phần trong tiêu chuẩn ISO, NFC vẫn không có khả năng bảo vệ trước nguy cơ bị đánh cắp thông tin và sửa đổi dữ liệu lưu trữ. Để bảo vệ, NFC buộc phải sử dụng các giao thức mã hóa lớp cao như SSL nhăm thiết lập một kênh giao tiếp an toàn giữa các thiết bị hỗ trợ. Để bảo mật, dữ liệu NFC sẽ cần phải có sự kết hợp từ nhiều phía gồm nhà cung cấp dịch vụ - họ cần phải bảo vệ các thiết bị hỗ trợ NFC với các giao thức mã hóa và xác thực; người dùng - họ cũng cần bảo vệ thiết bị và dữ liệu cá nhân với mật khẩu hay chương trình chống vi-rus; các nhà cung cấp ứng dụng và hỗ trợ giao dịch - họ cần phải sử dụng các chương trình chống vi-rus hay các giải pháp bảo mật khác để ngăn chặn phần mềm gián điệp và mã độc từ các hệ thống phát tán.

Nguy cơ bị đánh cắp thông tin:

Tín hiệu RF dành cho quy trình truyền tải dữ liệu không dây có thể bắt được bởi ăng-ten. Khoảng cách mà kẻ tấn công có thể khai thác và đánh cắp tín hiệu RF phụ thuộc vào rất nhiều tham số nhưng thông thường nằm trong phạm vi vài m trở lại. Tuy nhiên, NFC hỗ trợ 2 chế độ hoạt động là chủ động (active) và bị động (passive). Vì vậy, khả năng hacker có thể "nghe lén" tín hiệu RF bị tác động rất lớn bởi 2 chế độ này. Nếu một thiết bị bị động không tạo ra trường RF của riêng nó thì sẽ khó có cơ hội cho hacker bắt được tín hiệu RF hơn là một thiết bị chủ động.

Nguy cơ bị chỉnh sửa dữ liệu:

Dữ liệu NFC có thể bị phá hủy dễ dàng bởi các thiết bị gây nhiễu sóng RIFD. Hiện tại vẫn không có cách nào ngăn chặn hình thức tấn công này. Tuy nhiên, nếu các thiết bị hỗ trợ NFC có thể kiểm tra trường tín hiệu RF khi đang gởi dữ liệu đi thì chúng có thể phát hiện ra cuộc tấn công. Liệu hacker có cơ hội chỉnh sửa dữ liệu hay không? Câu trả lời là rất khó. Để thay đổi dữ liệu đã truyền dẫn, hacker phải xử lý từng bit đơn của tín hiệu RF.

Nguy cơ thất lạc:

Nếu người dùng làm mất thẻ NFC hoặc điện thoại hỗ trợ NFC thì họ đã "mở đường" cho người nhặt được khai thác chức năng của nó. Vd: Bạn sử dụng điện thoại để giao dịch qua NFC, nếu bạn làm mất, người nhặt được có thể dùng điện thoại của bạn để mua mọi thứ họ muốn. Như đã nói ở trên, bản thân NFC không có khả năng bảo mật và nếu điện thoại của bạn được bảo vệ bởi mã PIN thì đây được xem như một yếu tố xác nhận duy nhất. Vì vậy, để ngăn ngữa những nguy cơ khi làm mất thiết bị, người dùng phải sử dụng những tính năng bảo mật nâng cao chứ không chỉ đơn thuần là mật mã mở khóa máy hay mã PIN.

Những thiết bị đã hỗ trợ NFC: Những thiết bị hỗ trợ NFC trong tương lai:

Vào ngày 25 tháng 1 năm nay, Bloomberg đã công bố một bản thông báo trong đó nhấn mạnh rằng Apple sẽ theo đuổi sự phát triển của hệ thống thanh toán trên di động qua NFC. Các thế hệ tiếp theo của iPhone, iPod và iPad sẽ được trang bị NFC để giúp người dùng thực hiện giao dịch theo tỉ lệ vừa và nhỏ.

Tại hội nghị Near Field Communications World diễn ra hồi tháng 3 vừa qua, Sonim Technologies cũng tuyên bố sẽ bổ sung chip NFC vào chiếc điện thoại XP3300 Force vào cuối năm nay. Bên cạnh đó, trong tháng 5, RIM tuyên bố chiếc smartphone BlackBerry Bold 9900 sẽ là thiết bị đầu tiên của hãng hỗ trợ công nghệ NFC. Và cũng trong tháng 5, Google đã trình làng Google Wallet, một ứng dụng trên Android sử dụng công nghệ NFC để thanh toán tại các cửa hàng. Thông tin tài khoản sẽ được lưu trữ trong ứng dụng và sẽ được dùng để thực hiện giao dịch.

Dự án thử nghiệm và triển khai NFC:


Rất nhiều dự án thử nghiệm mô hình NFC đang được thực hiện và một số công ty đã chuyển sang triển khai dịch vụ theo quy mô lớn, từ một quốc gia đến đa quốc gia. Tại châu Âu, với sự hỗ trợ của các nhà mạng lớn như Orange, các ngân hàng, nhà bán lẻ, dịch vụ vận chuyển, v.v... NFC đã được thử nghiệm và triển khai tại 17 nước gồm Áo, Bỉ, CH Séc, Pháp, CHLB Đức, Hungary, Ai Len, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Nga, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và VQ Anh. Tại châu Phi, với sự hỗ trợ của Airtel Africa và Oberthur Technologies, công nghệ NFC cũng đang được thử nghiệm trên 15 quốc gia, đáng chú ý là Lybia và Nam Phi. Tại Bắc Mỹ, NFC đang được triển khai tại Canada với dịch vụ ví điện tử (mobile wallet) do 3 nhà mạng Bell Mobility, Rogers và Telus cung cấp. Hoa Kì cũng tiến hành thử nghiệm thiết bị và dịch vụ thanh toán qua điện thoại, vận tải công cộng. Riêng tại Mỹ Latin, chỉ mới có Brazil là áp dụng hình thức thanh toán qua điện thoại với NFC. Tại châu Á và châu Đại Dương, các quốc gia đang thử nghiệm và triển khai NFC bao gồm Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Sri Lanka và Thái Lan.

Nguồn: Tổng hợp Wikipedia